Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Đang tải...

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

1. Khái niêm tồn tại xã hôi và ý thức xã hội

1.1. Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

Đời sống vật chất của xã hội trước hết là hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh. Đó không phải chỉ là quá trình hoạt động để duy trì sự tồn tại của các cá thể người mà còn là quá trình tái sinh và không ngừng mở rộng các quan hệ vật chất của con người. Như vậy, khi cụ thể hoá phạm trù vật chất trong lĩnh vực xã hội, khái niệm tồn tại xã hội không những bao quát hoạt động vật chất mà còn vạch rõ những quan hệ vật chất cùng với những điều kiện vật chất khác tạo nên hoàn cảnh xã hội cho hoạt động của con người. Đó là phương thức sản xuất, giới tự nhiên xung quanh – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là nhân tố cơ bản nhất, vì nó làm thay đối ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển xã hội.

Trong những quan hệ xã hội mang tính vật chất, có hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người. Trong quan hệ vật chất giữa người với người thì quan hệ sản xuất là quan trọng nhất và là nền tảng cho những quan hệ tinh thần khác. Quan hệ sản xuất là quan hệ mang tính vật chất vì nó không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người.

Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, c. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng khái niệm tồn tại xã hội chính là sự phản ánh “quá trình đời sống hiện thực của con người”. Điều quan trọng, chúng ta cần hiểu là tồn tại xã hội không phải cái vật chất, vật thể hoàn toàn khách quan, thụ động ở bên ngoài con người mà trái lại, nó là cái vật chất xã hội, là quá trình sinh sống hiện thực của con người.

Nói đến tồn tại xã hội không thể không nói đến tính xã hội của nó. Vì thế, vật chất xã hội hay quá trình sinh sống hiện thực của con người, đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động hiện thực của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Và trong toàn bộ sinh hoạt vật chất ấy, c. Mác, Ph.-Ăngghen xác định: sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt là yếu tố, quá trình đầu tiên và căn bản nhất của nó.

Như vậy, chúng ta cần hiểu rằng tồn tại xã hội khác với tồn tại tự nhiên. Cái vật chất của tồn tại xã hội không phải là cái vật chất tự nhiên thuần tuý. Tính chất xã hội của tồn tại xã hội có nhiều nội dung và ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa cơ bản là tính toàn vẹn của sinh hoạt hiện thực của con người trong một tổ chức, một chế độ xã hội nhất định.

1.2. Khái niệm ý thức xã hội

Cùng với khái niệm tồn tại xã hội, khái niệm ý thức xã hội cũng được xác định một cách khoa học trên quan điểm duy vật lịch sử. Nội dung cơ bản của ý thức xã hội được thể hiện ở luận điểm: Ý thức không bao giờ có thể là gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức. Trước khi đưa ra kết luận này, C. Mác và Ph.Ăngghen đã giải thích rằng: sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu đều là trực tiếp gắn liền với hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật chất của con người.

Như vậy, ý thức xã hội là sản phẩm tất nhiên của tồn tại xã hội, bắt nguồn từ tồn tại xã hội, hình thành do nhu cầu của tồn tại xã hội và nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. Có thể hiểu đặc trung quan trọng nhất của ý thức xã hội là: nó là sản phẩm, là kết quả tất yếu của tồn tại xã hội. Là sản phẩm của tồn tại xã hội, ý thức xã hội không chỉ là kết quả của quá trình hoạt động của con người mà quan trọng hơn, kết quả đó còn có ý nghĩa đối với hoạt động của con người. Đó chính là tính xã hội của ý thức, là đặc trưng quan trọng nhất của ý thức xã hội. Cũng như tính chất xã hội của tồn tại xã hội, tính chất xã hội của ý thức xã hội cần được hiểu với nghĩa quan trọng nhất là tính xã hội toàn vẹn của nó.

Hai khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội được xây dựng trong tương quan với nhau, chỉ nhằm vạch ra sự khác biệt chung giữa chúng, giữa cái quy định và cái bị quy định, giữa cái được phản ánh, cái tồn tại, cái hiện thực, khách quan và cái phản ánh, cái tinh thần, cái chủ quan.

Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng, quạn điểm, lý luận cùng nhũng tình cảm, tâm trạng, truyền thống-phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của con người vào đời sống tinh thần chứ không phải toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.

Phạm trù đời sống tinh thần của xã hội rộng hơn phạm trù ý thức xã hội. Đời sống tinh thần của xã hội không chỉ bao gồm ý thức xã hội (những tư tưởng, quan điểm, lý thuyết, tình cảm, tâm trạng, thói quen, ý chí, nguyện vọng.) mà còn bao gồm tất cả những hoạt động về mặt tinh thần và những quan hệ tinh thần của con người.

2. Kết cấu của ý thức xã hội

Chúng ta có thể tiếp cận ý thức xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể xem xét ý thức xã hội gắn với các hình thái kinh tế – xã hội, cũng có thể tiếp cận ý thức xã hội dưới góc độ chủ thể mang ý thức để phân tích ý thức xã hội của các nhóm, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.

Nói chung, ý thức xã hội thường được phân chia theo “chiều dọc” thành những cấp độ và theo “chiều ngang” thành các hình thái ý thức xã hội.

Tuỳ theo góc độ xem xét, chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:

2.1. Ý thức thông thường và ý thức lý luận

a) Ý thức thông thường

Là những hiểu biết về xã hội, những quan niệm sống của con người được hình thành một cách trực tiếp từ cuộc sống xã hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hàng ngày của con người.

Ý thức thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống. Những tri thức kinh nghiệm phong phú là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.

b) Ý thức lý luận

Là những tư tưởng, quan điểm xã hội mang tính hệ thống hoá, được xây dựng nên bởi tư duy lý luận và được diễn tả dưói dạng hệ thống các khái niệm khoa học, các học thuyết xã hội.

Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Chính vì vậy, ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện tính vượt trước của ý thức xã hội. Vai trò sáng tạo, tích cực của ý thức lý luận ngày càng tăng trong xã hội hiện đại.

2.2. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội

a) Tâm lý xã hội

Là một bộ phận của ý thức thông thường, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán của con người được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hường trực tiếp của điều kiện sinh sống hàng ngày.

Tâm lý xã hội là hiện tượng phong phú, đa dạng phức tạp không những vì được hình thành tự phát do điều kiện sinh sống và hoạt động trực tiếp hàng ngày chi phối mà còn vì tính phức tạp và tinh tế của tâm lý con người. Tâm lý xã hội thuộc lĩnh vực tâm lý của con người nên tính dễ “lây lan” là một trong những đặc trưng của nó. Yeu tố xúc cảm tâm lý khiến cho tâm lý xã hội có tác dụng kích thích hành động của con người một cách nhanh chóng. Vì vậy, sự hiểu biết kịp thời và đúng đắn tâm trạng xã hội của quần chúng, là một yêu cầu rất quan trọng trong công tác vận động cách mạng, trong hoạt động quản lý và lãnh đạo xã hội nói chung, trong công tác tư tưởng nói riêng. Một tư tưởng xã hội chỉ trở thành sức mạnh hiện thực trong thực tiễn khi nó kết hợp với yếu tố tâm lý trong ý thức con người và súc mạnh đó chỉ trở nên lâu bền khi nó đi vào tập quán của xã hội.

b) Hệ tư tưởng xã hội

Là những quan điểm, tư tưởng đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận, thành các học thuyết chính trị – xã hội, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định.

Hệ tư tưởng thuộc cấp độ lý luận của ý thức nhưng không bao hàm toàn bộ ý thức lý luận. Với tư cách là ý thức lý luận, hệ tư tưởng không phản ánh hiện thực một cách trực tiếp, toàn vẹn mà phản ánh gián tiếp bằng các công cụ khái niệm, phạm trù của mình. Với tư cách là sản phẩm ý thức của một tập đoàn, một giai cấp, hệ tư tưởng chứng minh và bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn xã hội, của giai cấp đó. Hệ tư tưởng hình thành một cách tự giác, trải qua quá trình hoạt động tích cực của tư duy nhà tư tưởng và mang tính giai cấp sâu sắc. Hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị giữ vị trí là hệ tư tưởng thống trị xã hội. Khi tư tưởng của các giai cấp thống trị đã lỗi thời, các giai cấp bị trị không chấp nhận hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, do vậy trong đấu tranh giai cấp, bao giờ cũng có đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ.

Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.

Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất  định. Ví dụ,tâm lý, tình cảm giai cấp là điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng cửa giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động và phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yểu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.

Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.

Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những họe thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó. Ví dụ, hệ tư tưởng tôn giáo thời trung cổ ở Tây Âu thể hiện lợi ích của giai cấp phong kiến, nhưng lại ra đời trực tiếp từ tư tưởng triết học duy tâm có từ thời cổ đại và những tư tưởng của đạo Cơ đốc thời kỳ đầu công nguyên. Hệ tư tưởng Mác- Lênin cũng không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai cấp công nhân lúc đó đang tự phát đấu trranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, đồng thời kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế – xã hội và triết học vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

3. Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mội giai cấp quy định, ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.

Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư tưởng hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị kinh tế và chính trị ở thời đại đó.

Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bóc lột.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bị bóc lột, phản ánh tiến trình khách quan của sự phát triển lịch sử. Hệ tư tưởng Mác – Lênin đối lập với hệ tư tưởng tư sản – hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản từ hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tư tưởng.

Trong điều kiện xã hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra. Trước những khó khăn và thử thách trên con đường phát triển cùa chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch đang ra sức tiến công vào chủ nghĩa Mác – Lênin, muốn phủ nhận, xoá bỏ nó. Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới nói chung.

Ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau. Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản xuất, phải chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột. c. Mác, Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”.

Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, mà trái lại giai cấp thống trị cũn,g chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ giai cấp xuất thân của mình chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp đó. Đặc biệt một số người còn trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.

Ý thức cá nhân

Ý thức cá nhân là ý thức của mỗi con người sống trong xã hội. Ý thức xã hội tồn tại tròng và thông qua ý thức cá nhân. Chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm rằng, ý thức cá nhân hay ý thức xã hội đều là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất.

Mỗi con người sống trong xã hội bao giờ cũng mang bản chất xã hội. Song, mỗi con người mang dấu ấn của nghề nghiệp, nhóm xã hội khác nhau. Mỗi người còn có điều kiện sổng, hoàn cảnh gia đình, môi trường giáo dục, quan hệ bạn bè, trình độ học vấn, văn hoá, sự từng trải, thể nghiệm với những may mắn và rủi ro trong đường đời không giống nhau. Tất cả những điều kiện đó đã tạo ra sự phong phú, đa dạng, muôn vẻ của ý thức cá nhân, nó sốngchết cùng với cá nhân con người.

Chính những đặc điểm riêng của ý thức cá nhân đã cắt nghĩa vì sao những người sống trong giai cấp này lại chịu ảnh hưởng tư tưởng giai cấp khác, vì sao lại có những quan niệm, những tư tưởng khác nhau dẫn tới hành động không giống nhau ở những người trong cùng một giai cấp.

Tuy nhiên, quá nhấn mạnh những điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân trong ý thức con người sẽ dẫn tới hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Vì vậy, khi đánh giá các hiện tượng ý thức trong xã hội có giai cấp phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân.

Tâm lý dân tộc               

Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc: những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, điều kiện tự nhiên hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc: tỉnh cảm, ước muốn, tập quán, thọi quen, tính cách của dân tộc, phản ánh những điều kiện sinh hoat chung của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc, truyền thông từ hệ này qua hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.

Tâm lý dân tộc tuy là yếu tố khá ổn định của ý thức xã hội nhưng không phải là bất biến. Khi xã hội diễn ra những bước chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội sẽ dẫn đến sự thay đổi về tâm lý dân tộc.

Tâm lý dân tộc tuy phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc và mang tính chất toàn dân tộc, nhưng trong xã hội có giai cấp nó luôn luôn có mối liên hệ tác động qua lại với ý thức của giai cấp. Nếu giai cấp thống trị tiến bộ thì hệ tư tưởng của nó tạo điều kiện để phát huy những giá trị tinh thần của tâm lý dân tộc và ngược lại.

Ý thức nhân loại và ý thức toàn cầu

Tuy ý thức xã hội mang tính giai cấp, nhưng chúng ta không phủ nhận ý thức nhân loại nói chung. Tính nhân loại của ý thức xã hội là phạm trù vĩnh viễn, tính giai cấp của ý thức xã hội là phạm trù lịch sử ừong xã hội có giai cấp.

Tính nhân loại của ý thức xã hội được biểu hiện ra ở các giá trị phổ biến của nhân loại về chân lý, đạo đức, cái đẹp, nhũng giá trị về Chân – Thiện – Mỹ. Những giá trị phổ biến của nhân loại vượt lên trên mọi thời đại, mọi giai cấp và trở thành tài sản chung của nhân loại.

Trong tiến trình phát triển của lịch sử, ý thức của các giai cấp tiến bộ thường đại diện cho ý thức chung của nhân loại và gắn với các giai đoạn lịch sử đó. Vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử nhân loại, sự chiến đấu cho ý thức của các giai cấp tiến bộ, thực chất chính là chiến đấu cho ý thức của nhân loại nói chung.

Quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội do C.Mác vạch ra cho đến nay vẫn là kim chỉ nam cho việc phân tích những biểu hiện bản chất của ỷýthức xã hội trước sự thay đổi của đời sống kinh tế – xã hội. C. Mác chưa có dịp nói đến ý thức toàn cầu, ý thức toàn nhân loại, song chúng ta thừa nhận rằng: ý thức của các dân tộc khác nhau trên thế giới có sự đồng hoá, chuyển hoá, thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau. Xét từ góc độ triết học, kinh tế học, văn hoá học, đặc biệt là tâm sinh lý học, dân tộc học, nhân chủng học, mọi người trên Trái Đất, dù có những nét khác biệt vẫn có sự tương đồng. Ví dụ về tín ngưỡng, đều tôn thờ những đấng siêu nhiên; về khía cạnh hoạt động thực tiễn, ngay từ thời tiền sử, con người đều biết chế tạo công cụ lao động, hái lượm, săn bắt.

4. Bản chất của ý thức xã hội

Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong tình cảm, trong tâm trạng, truyền thống cũng như trong tư tưởng và lý luận xã hội. Muốn thấy được sự mở rộng của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc nhận thức các hiện tượng xã hội thì trước hết là phải giải thích một cách duy vật bản chất của ý thức xã hội. Chính chủ nghĩa Mác lần đầu tiên đã chứng minh rằng, mặc dù con người tạo ra tư tưởng và quan niệm của mình, nhưng không phải tạo } a một cách tuỳ ý mà theo hình mẫu của các mối quan hệ hiện thực “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình sinh sống của con người”. Một trong những công lao vĩ đại của

Mác và Ph. Ăngghen là không những phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao và tạo ra quan điểm duy vật lịch sử, mà còn lần đầu tiên giải quyết khoa học vấn đề quy luật hình thành và phát triển của ý thức xã hội, chỉ ra cơ sở, nguồn gốc vật chất, kinh tế của mọi hiện tượng tinh thần, ý thức c. Mác viết: không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”.

Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật sớm muộn sẽ biến đổi theo. Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta có những lý luận, quan điểm, tư tưởng, xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.

Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung và hưởng chung nên chưa có quan niệm về tư hữu, chưa có ý thức về bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng biến đổi căn bản: nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân… Các nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô (kế cả chủ nô dân chủ, tiến bộ) vẫn ca ngợi chế độ nô lệ, coi sự tồn tại của nó là họp tự nhiên, cần thiết. Nhưng khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, lỗi thời thì trong xã hội cũng xuất hiện những tư tưởng xem chế độ nô lệ là trái với chính nghĩa cần xoá bỏ. Trong xã hội phong kiến khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã hội này và dần dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý tính con người và cần phải được thay thế bằng chế độ công bằng và họp với lý tính của con neười hơn. Ngay khi xã hội tư bản mới hình thành đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, đề xuất những phương án xây đụng chế độ xã hội tốt đẹp, thay thế chế độ tư bản. Nhưng những nhà xã hội chủ nghĩa không tư tưởng không thể giải thích được bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và không hiểu được những điều kiện khách quan dẫn tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Điều đó phản ánh tình hình xã hội tư bản mới ra đời đã mang trong mình có những mâu thuẫn, song những điều kiện xây dựng xã hội mới thay thế xã hội tư bản hoàn toàn chưa chín muồi.

Những ví dụ trên chứng tỏ rằng: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải bất cứ tư tưởng quan điểm, lý luận xã hội nào cũng trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ xét đến cùng thì các quan hệ kinh tế mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác vào trong những tư tưởng đó. Bởi vì trong sự phát triển của mình, ý thức xã hội có sự tác động qua lại giữa các hình thái và kế thừa những ý thức của quá khứ. Như vậy chủ nghĩa Mác đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét hiện tượng ý thức xã hội. Bởi vì nó là một hiện tượng xã hội phức tạp, vừa phụ thuộc vào tồn tại xã hội, vừa có tính độc lập tương đối. Bản chất của ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, là quá trình ý thức thâm nhập vào tồn tại xã hội, hiểu biết, khám phá, sáng tạo theo nhu cầu cuộc sống con người. Chính vì điều này, ý thức xã hội mang dấu ấn của lợi ích. Đó chính là thái độ của chủ thể trước những sự kiện và hiện tượng của cuộc sống.

Xem thêm Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Triết học Mác

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận