Đặc điểm phản ánh của ý thức xã hội

Đang tải...

Đặc điểm phản ánh của ý thức xã hội

Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là một quá trình phức tạp và mâu thuẫn, về mặt bản chất, ý thức xã hội là sự phản ánh của sự tồn tại xã hội, song sự phản ánh ấy không phải bao giờ cũng đon giản, một chiều mà còn có những biểu hiện khá đa dạng, phong phú. Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể đúng, có thể sai; phản ánh mang tính chất trực tiếp hoặc gián tiếp; ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã hội; trong quá trình phản ánh ý thức xã hội còn có sự kế thừa ý thức xã hội của các thời đại trước đó và giữa các hình thái ý thức xã hội còn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Đặc điểm phản ánh của ý thức xã hội thể hiện rõ ở tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Tính độc lập tương đối đó có những nguyên nhân lịch sử: do trong xã hội có sự phân chia giai cấp, do quy luật trong sự phát triển của bản thân ý thức, do tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.

Những hình thức biểu hiện cụ thể của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội hết sức phong phú. về cơ bản, có năm hình thức biểu hiện sau đây:

1. Ý thức xã hội thường lạc hậu so vói tồn tại xã hội

Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng tỏ rằng nhiều khi chế độ cũ đã mất đi, thậm chí đã mất đi rất lâu, nhung ý thức xã hội do chế độ đó sinh ra vẫn còn tồn tại. Tính chất lạc hậu của ý thức xã hội so với sự tồn tại vật chất của xã hội thể hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống, tập quán, thói quen, tình cảm, dư luận, V. V.). Đây là lĩnh vực bền vững và bảo thủ nhất của ý thức xã hội. Khi nói về sự trì trệ của tâm lý sản xuất nhỏ được tạo nên qua bao thế kỷ, Lênin đã viết: “Sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người, đó là sức mạnh ghê gớm nhất”.

Dưới chủ nghĩa xã hội, tuy cơ sở kinh tế của xã hội cũ đã bị thủ tiêu, nhưng những tàn dư tư tưởng tâm lý của nó vẫn tồn tại dai dẳng trong ý thức của một bộ phận thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa như thói tham lam, trục lợi, tư tưởng ăn bám, lười lao động, tệ quan liêu, cửa quyền, ăn hối lộ,-

Sự lạc hậu của ý íhức xã hội so vứi sự tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây:

Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội (đặc biệt trong tâm lý xã hội).

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

Những hiện tượng ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những thế lực thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.

2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sổng vật chất của xã hội đặt ra.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại – giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản, nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.

Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa nói rằng trong trường họp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh chín h xác, sâu sắc tồn tại xã hội.

Sự phản ánh vượt trước sẽ là sáng tạo khi ý thức xã hội phản ánh đúng được mối liên hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Nói cách khác, ý thức xã hội phản ánh được cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội.

2. Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội

Kế thừa là một trong những tính quy luật của sự phát triển ý thức xã hội. Kế thừa là tất yếu khách quan và thừa kế phải qua “lọc bỏ”, đó là biện chứng của sự phát triển. Một tư tưởng mới, một ý thức mới ra đời bao giờ cũng biết chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa của quá khứ. Quan hệ kế thừa làm cho sự phát triển diễn ra trong lĩnh vực ý thức như là lịch sử phát triển tự nhiên, như một quá trình nối tiếp liên tục của tư duy giữa các thế ho. Chính điều này làm cho ngựời ta lầm tưởng rằng tư tưởng dường như là sản phẩm của tư duy “thuần tuý” hoàn toàn độc lập với tồn tại xã hội. Thật ra tồn tại xã hội, xét đến cùng bao giờ cũng là cái quyết định ý thức xã hội – quy định cả nội dung, bản chất và khuynh hướng kế thừa trong quá trình phát triển của ý thức xã hội.

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm ỉý luận của mỗi thời đại ìthông xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế íhừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học cổ điến Đức, kinh tế học chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật nhiều khi không phù họp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế. Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta giải thích hiện tượng vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. Ví dụ, nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh; so với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhung đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.

Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ví dụ, khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước đó. Giai cấp phong kiên các nước Tây Âu trung cổ vào thời kỳ suy thoái đã ra sức khai thác triết học của Platôn và những yếu tố duy tâm trong hệ thống ừiết học của Aristổt thời kỳ cổ Hy Lạp, biển chúng thành cơ sở triết học của giáo lý đạo Thiên chúa; hoặc như, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới của chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômat mới, v.v. để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng của nó là chủ nghĩa Mác.

Quan điểm của triết học Mác-Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mácxít. Người viết: “Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng sổ những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”7.

Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác-Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới”.

4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong phát triển của ý thức xã hội

Các hình thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự tác động của tồn tại xã hội, của điều kiện vật chất, mà còn chịu sự tác động lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức có những tính chất và những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy: thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo nhũng hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh, đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu thời trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là công cụ quan trọng để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.

Trong xã hội có giai cấp tư tưởng chính trị trực tiếp phản ánh cơ sở kinh tế và gắn liền với cơ sở kinh tế, với lợi ích của giai cấp, nên nó có tác dụng chi phối mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học, nghệ thuật mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

5. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

Đây là biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tựơng đối của ý thức xã hội. Vai trò của ý thức xã hội đối với đời sống xã hội thể hiện rõ nhất ở điểm này. Trong những điều kiện nhất định, ý thức xã hội có khả năng tố chức hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người và có vai trò cải tạo hiện thực.

Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có ý nghĩa khác nhau. Nó có thể thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển (trong trường hợp nhận thức đúng và có khả năng vận dụng được những quy luật khách quan). Nhưng nó cũng có thể kìm hãm tiến bộ xã hội khi ý thức xã hội phản ánh xuyên tạc tồn tại xã hội và hướng con người vào những hành động đối lập với lôgic khách quan của lịch sử.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường (hay chủ nghĩa duy vật kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.

Chủ nghĩa duy vật tầm thường (hay chủ nghĩa duy vật kinh tế) quan niệm một cách sai lầm về vai trò của những điều kiện kinh tế, phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội, của kiến trúc thượng tầng nói chung trong đời sống xã hội. Quan điểm đó đã thể hiện trong hàng loạt lý luận phản mácxít như chủ nghĩa khách quan đã tôn sùng “tính tất yếu thép”, lý luận cơ hội chủ nghĩa về tính tự phát đã hạ thấp hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò của lý luận cách mạng.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã lý giải một cách khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, chỉ ra vai trò và tác dụng to lớn của ý thức tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội. Ý thức xã hội tuy là cái có tính thứ hai trong mối quan hệ với tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, song không phải là cái phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội, mà có tác động mạnh mẽ đến tồn tại xã hội.

Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học nghệ thuật đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo nhiều chiều (tích cực, tiêu cực), phương thức tác động trở lại là phức tạp. Song nhìn chung, sự tác động trở lại lệ thuộc vào các yếu tố: mức độ phù họp của tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức vào quần chúng nhân dân (hay sự mở rộng của tư tưởng trong quần chúng); năng lực hiện thực hoá ý thức của các giai cấp và chính đảng.

Vai trò của những tư tưởng phản động và những tư tưởng tiên tiến trong đời sống xã hội hoàn toàn khác nhau. Những tư tưởng và lý thuyết xã hội phản động, phản ánh lợi ích của các giai cấp đã lỗi thời, hết vai trò lịch sử. Những tư tưởng tiên tiến phản ánh lợi ích của các giai cấp tiến bộ, thúc đẩy quá trình phát triển. Trong thời kỳ của những cuộc cách mạng xã hội, tư tưởng tiên tiến có sức mạnh đặc biệt to lớn, có tác dụng thống nhất, động viên quần chúng chuyển hoạt động có tính tự phát của quần chúng thành hành động tự giác.

Ra đời trong thực tiễn đẩu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác – Lênin đã thấm sâu vào ý thức của hàng triệu người trên Trái Đất và trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức trên toàn thế giới.

Tóm lại, ý thức xã hội với tất cả các bộ phận họp thành của nó (tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội, trong đó hệ tư tưởng đóng vai trò đặc biệt to lớn. Với tư cách là vũ khí lý luận hệ tư tưởng lập luận cho lợi ích của giai cấp, đem lại cho giai cấp một “tình cảm cộng đồng”, đoàn kết giai cấp trên cơ sở những giá trị tinh thần chung, giúp cho giai cấp có cương lĩnh hoạt động và chỉ ra mục đích, phương tiện của cuộc đấu tranh.

Nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã vạch ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển nền văn hoá tinh thần của xã hội, loại bỏ quan niệm máy móc, tầm thường về lịch sử phát triển của ý thức xã hội.

Xem thêm Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận