Phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đang tải...

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Triết học Mác

Phát triển con người Việt Nam đáp úng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ đề lớn trong nghiên cứu con người hiện nay. Nó đòi hỏi sự liên kết, hợp tác nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong phạm vi chuyên đề này sẽ chỉ đề cập tới một số vấn đề đang được đặt ra trên bình diện lý luận và thực tiễn liên quan đến nhận thức và thực tiễn xây dựng, phát triển con người trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. Cụ thể, chúng ta giới hạn ở việc xem xét một số nội dung chính sau đây: lý thuyết con người là trung tâm của UNDP – quan niệm chi phối chính sách phát triển con người ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay; sự tiếp họp của đổi mới nhận thức về vai trò của con người ở nước ta với khuynh hướng nhận thức có tính cách mạng của thời đại về con người và phát triển con người; một số nội dung chủ yếu của quan niệm phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta.

1. Quan niệm con người là trung tâm của UNDP

Trong ngôn ngữ hàng ngày, cũng như trong các ấn phẩm khoa học, chính trị và quản lý.v.v. quan niệm con người là trung tâm của sự phát triển thường được nhắc tới nhiều. Tuy nhiên nhiều người có khuynh hướng hiểu đó là quan niệm chỉ của UNDP – quan niệm khẳng định vai trò trung tâm của nhân íố con người trong sự phát triển. Quan niệm này hiện nay rấí phổ biến và tác động một cách sâu sắc đến quan niệm và chính sách phát triển của hầu hết các nước từ những năm 90 của thế kỷ XX.

Trước khi tìm hiểu quan niệm con người là trung tâm của UNDP, chúng ta ngược trở về lịch sử tư tưởng, cần nói rằng tư tưởng “con người là trung tâm” không phải hoàn toàn mới, trong lịch sử triết học, lịch sử tư tưởng phương Tây và phương Đông đã xây dựng hệ thống quan niệm về sự phát triển xã hội xung quanh khái niệm con người, chẳng hạn trong triết học đạo đức của Xocrát và Khổng Tử. Ở phương Tây Anthropocentrism (chủ nghĩa coi con người là trung tâm) là học thuyết triết học có ảnh hưởng rất lớn trong sự phát triển của nền văn hoá, văn minh châu Âu.

Trong Anthropocentrism thế kỷ XVII – XVIII phạm trù con người với tư cách là phạm trù lý thuyết trung tâm, đó là con người cá nhân, cá thể, con người là trung tâm của vũ trụ, và những kiến giải về vai trò của con người thường dẫn đến quan niệm duy tâm, tôn giáo. Một trong những học thuyết theo xu hướng này, rất quen thuộc đối với sinh viên theo học ngành triết học ở nước ta, đó là học thuyết nhân bản của L. Phơ-bách.

Trong triết học Mác mặc dù các tác gia kinh điển không sử dụng thuật ngữ Anthropocentrism để mô tả học thuyết về con người. Nhưng, về bản chất, luận điểm con người là trung tâm đã trở thành cốt lõi của hệ thống lý luận về xã hội. Tuy nhiên, vấn đề con người trong học thuyết Mác được tiếp cận theo một cách khác, triệt để hơn so với các lý thuyết về con người trước đó. Điều đó được thể hiện như sau: lý luận giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại khỏi sự tha hoá của chủ nghĩa Mác – tư tưởng cốt lõi của học thuyết về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin. Với cái nhìn biện chứng duy vật về lịch sử chủ nghĩa Mác học thuyết về con người hướng vào nội dung trọng tâm sau: chỉ rõ mục tiêu của sự phát triển xã hội là vì con người, nghĩa là để con người thực sự tự do, có điều kiện phát triển toàn diện và được hưởng cuộc sống hạnh phúc; trong xã hội có giai cấp thì người lao động, trước hết và quan trọng nhất là giai cấp công nhân và nông dân, tầng lớp đông đảo về số lượng, lực lượng chủ đạo làm ra của cải cho xã hội nhưng chịu những bất hạnh, bị nô dịch, bóc lột nhiều nhất, là đối tượng cần được giải phóng và chủ nghĩa Mác khắng định sự nghiệp giải phóng nhân loại, giải phóng con người cá thể chỉ có thể được thực hiện không thể tách rời nhiệm vụ giải phóng giai cấp ( Với nghĩa đó phạm trù con người là trung tâm của học thuyết về con người của chú nghĩa Mác đó là phạm trù con người giai cấp); đê thực hiện lý tưởng đó phải tập hợp, hướng hoạt động của giai cấp công nhân và của người lao động vào việc lật đổ, cải tạo hiện thực bất công của xã hội có giai cấp bằng cách mạng xã hội dưới sự dẫn đường của giai cấp công nhân.

Trở lại với chủ đề quan niệm con người của UNDP. Trước hết chúng tôi muốn nói rằng, học thuyết về con người của UNDP, – học thuyết được thừa nhận là quan điểm chính thống của Liên họp quốc (UN) và có ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các quốc gia thành viên, là quan niệm mới nếu so sánh theo chiều thời gian với các lý thuyết anthropocentrism trước đó. Nó xuất hiện vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Ke thừa và cải tạo lại quan niệm của trường phái anthropocentrism phương Tây, các chuyên gia UN đã đưa vào khái niệm “con người là trung tâm” nhũng nội dung, cách hiểu mới, tiến bộ và phát triển nó thành bộ công cụ có khả năng ứng dụng cao. Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt những điếm chính của quan niệm này:

Thứ nhất, trong luận thuyết con người là trung tâm của UNDP đã thực hiện những sự chuyển dịch lớn về nội hàm khái niệm con người – 1/ Khắc phục cách hiểu cực đoan đồng nhất phạm trù con người với con người cá thể, cá nhân riêng biệt của anthropocentrism truyền thống của châu Âu, và hướng sự chú ý đến “con người cộng đồng”, 2/ Từ chỗ coi con người là trung tâm của vũ trụ thành “trung tâm” của sự phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai, khẳng định con người là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển. Điều này được UNDP phát biểu trong tuyên ngôn 1990 như sau: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là đê tạo môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống ỉâu dài, khoẻ mạnh và sáng tạo. Chân lý đơn giản nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính”.

Thứ ba, triết lý phát triển lấy phạm trù “phát triển con người” làm phạm trù trung tâm. Ý tưởng chi phối nội dung khái niệm “phát triển con người” của UNDP chính là phát triển con người được hiếu như sau: 1 – tăng cường năng lực lựa chọn của con người; 2 – mở rộng cơ hội lựa chọn cho mọi người, về điều này Paul Steeten viết trong báo cáo có tiêu đề “Mười năm phát triển con người”(UNDP: Báo cáo phát triển con người 1999) như sau: “phát triển con người là quá trình mở rộng sự lựa chọn cho dân chúng – không chỉ là sự lựa chọn các loại bột giặt, các kênh truyền hình hoặc các kiểu xe hơi, mà là những lựa chọn được tạo ra bởi việc mở rộng các năng lực và các hoạt động của con người (.) – những gì mà dân chúng làm và có thể làm trong cuộc sống của họ”.

Điểm quan trọng trong quan niệm về con người và phát triển con người của UNDP chính là chỗ khái niệm phát triển con người nhấn mạnh mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển và tiến bộ xã hội, mặc dù không thể tách rời hai mặt này trong quan niệm về vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển, về lý thuyết tính hợp lý của quan niệm trên là điều không thể phủ nhận, với quan niệm này con người chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội. Nó là nhân tố quyết định cả đầu vào và đầu ra của sự phát triển. Vì vậy nó trở thành công cụ giúp chúng ta tránh được những hạn chế những khiếm khuyết của các quan niệm trước đó;.

Thứ tư, các chuyên gia của UNDP đã xây dựng bộ công cụ nhăm lượng hoá quan niệm về phát triển con người thành những chỉ số phát triển con người (HDI). Và trong đánh giá về sự phát triển, tiến bộ xã hội chỉ số HDI ỉà một trong những chỉ số quan trọng. Với sự xuất hiện của HDI trong bảng đánh giá về sự phát triển đòi hỏi không chỉ sự thay đổi cách nhìn về phát triển, mà quan trọng hơn là sự chi phối, tác động của chúng đối với các chính sách và các ứng xử đối với các vấn đề xã hội. Chẳng hạn, để đạt được các tiêu chí về phát triển của UNDP các nhà hoạch định chính sách không thể bỏ qua hoặc coi nhẹ những vấn đề như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.v.v. Như vậy chúng ta sẽ thấy một bức tranh đầy đủ về sự phát triển không chỉ căn cứ trên chỉ số GDP.

Để làm rõ khía cạnh xã hội của sự phát triển, năm 1997, UNDP đưa thêm chỉ số “Nghèo khả năng phát triển con người” hay còn gọi là chỉ số nghèo tổng họp (HPI) vào bảng đánh giá sự phát triển. HPI giúp chúng ta thấy rõ hơn những rào cản đối với sự phát triển con người thông qua những chỉ sổ phản ánh sự thiếu hụt cơ hội và khả năng lựa chọn để có cuộc sống tốt hơn của con người.

Với những điều chỉnh, phát triển quan niệm về con người theo hướng cụ thể hoá, lượng hoá, chứ không dừng ở phạm vi của một lý tưởng, quan niệm về con người của UNDP đã trở thành công cụ quan trọng trong nhận thức và hoạch định chính sách phát triển ở quy mô quốc gia và quốc tế. Hiện nay phổ ứng dụng của bộ công cụ này là rất rộng, một trong những biểu hiện là hầu hết các nước thành viên UN tham gia “Báo cáo phát triển con người” hàng năm của UNDP. Việt Nam bắt đầu tham gia từ 1997.

2. Sự phát triển của nhận thức về con người và vai trò của nhân tố con người trong thòi kỳ đổi mới ở nước ta

Ngày nay những quan niệm như “con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội”, “nguồn lực con người là nhân tố quyết định sự phát triển”.v.v. không còn xa lạ trên các diễn đàn quốc tế, trong các chính sách phát triển của các quốc gia và trong nhận thức đại chúng. Nhưng để đi đến nhận thức về tầm quan trọng của nhân tố con người đối với sự phát triển xã hội như là nhân tố “trung tâm” (con người là nguồn lực chính đồng thời là mục tiêu của sự phát triển) như hiện nay là cả quá trình lâu dài với giá phải trả là không nhỏ do những sai lệch của tư duy về phát triển. Chẳng hạn, ở các nước phương Tây, nhiều thập kỷ của thế kỷ XX, cho đến tận những năm 80 quan niệm duy kinh tế trong tư duy về phát triển bắt đầu được nhận thức lại với tinh thần phê phán. Trọng tâm của sự phê phán đó nhằm vào quan niệm coi sự phát triển kinh tế trên thực chất là mục tiêu tối thượng, dù rằng nó được tuyên bố bằng những ngôn ngữ mềm dẻo hơn, ở đó con người chỉ là công cụ, phương tiện cho các mục tiêu kinh tế. Những tác động tiêu cực của quan niệm và đường lối phát triển đó đối với tiến bộ xã hội là không nhỏ. Cũng thời điểm trên ở các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây những lệch lạc trong quan niệm về vai trò của nhân tố con người được nhận diện từ chiều cạnh khác “ứng dụng thiên lệch theo hướng tuyệt đối hoá con người xã hội, con người chính trị, xem nhẹ con người cá nhân, thiếu chú ý thoả đáng đến tính tích cực sáng tạo của con người cá nhân. Dần dần con người xã hội chủ nghĩa vô tình trở thàrih “đinh ốc ngoan ngoãn” (Zuiganov – Chủ tịch Đảng Cộng sản Nga, TG) trong cơ chế’’7. Đe khắc phục những quan niệm sai lệch của tư duy phát triển đó, cộng đồng quốc tế dưới sự điều phối của Liên hợp quốc hướng tới tìm kiếm, xây dựng quan niệm mới về phát triển lấy con người làm trung tâm (nội dung của quan niệm mới đó đã được trình bày ở phần trên),

Ở nước ta quá trình đổi mới nhận thức về vai trò của nhân tố con người đỏi với sự phát triển diễn ra trong khoảng thời gian khá trùng khớp với thời điếm được nói đến ở trên, tức ỉà vào khoảng từ giữa nhũng năm 80 của thế kỷ XX. Điều này một mặt cho thấy sự tác động của xu thế nhận thức mới về phái triển của thời đại đến sự hình thành quan niệm phát triển lấy con người làm trung tãm ở nước ta hiện nay, nhưng sẽ là phiến diện và không thực tế nếu không thấy đòi hôi đổi mới nhận thức về con người lả yêu cầu từ thực tế phát triển của xã hội Việt Nam với những đặc thù riêng của xã hội Việt Nam.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam chúng ta thấy quan niệm nhấn mạnh vai trò của nhân tố con người không phải là quan niệm xa lạ. Điển hình đó là quan niệm “lấy dân làm gốc” đã là quan niệm có tính truyền thống trong suốt lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc từ nhiều nghìn năm nay, đặc biệt là trong lịch sử chống ngoại xâm. Cái cốt lõi của quan niệm này là nhấn mạnh sức mạnh của nhân tố con người, của mọi người dân quy tụ vì mục tiêu chung. Đó là động lực, là yểu tố cơ bản của những thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Đối mặt với những thách thức của thời kỳ hiện đại trong sự phát triển của xã hội Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng và rèn luyện đã kết họp khá thành công quan niệm truyền thống được hun đúc trong lịch sử dân tộc với những quan niệm hiện đại dựa trên nền lý luận về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin từ đó xây dựng, hoàn thiện quan niệm phát triển lấy con người làm trung tâm. Nhưng cần phải nói rằng quá trình nhận thức không phải mọi lúc đều diễn ra theo đường thẳng, không có những sai lầm. Trong nhận thức về con người và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là giai đoạn 1975-1986 có không ít những ấu trĩ, chẳng hạn, vì chưa ý thức được đầy đủ sự khác biệt giữa phát huy nhân tố con người trong chiến tranh với trong xây dựng, kiến thiết tổ quốc thời bình, nên một thời gian dài chúng ta vẫn áp dụng theo quán tính mô hình (thành công trong chiến tranh) – hy sinh lợi ích riêng của con người cá nhân vì lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Vì vậy cả trong nhận thức lý luận, trong chính sách và mô hình quản lý kinh tế – xã hội đã không chú ý đúng mức giải quyết họp lý bài toán quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, giữa cái chung với cái riêng. Quan niệm phổ biến ở nước la thời bấy giờ là lợi ích tập thể, lợi ích chung được tuyệt đối hoá, còn những ai quan tâm, đấu tranh vì lợi ích riêng bị nhìn với con mắt kỳ thị. Hệ quả của điều đó là động lực của sự phát triển bị triệt tiêu, kinh tế không phát triển.v.v. Và về mặt nhận thức quan niệm đó cũng xa lạ với Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bước chuyển quan trọng của tư duy về phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội, về con đường xây dựng, phát triển đất nước trong thời đại mới được bắt đầu tại Đại hội Lần thứ VI (1986) của Đảng. Liên quan đến đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của nhân tố con người, Đại hội VI đã đưa thuật ngữ “nhân tổ con người” vào văn kiện của đại hội với tư tưởng chủ đạo là khẳng định vai trò quan trọng của “nhân tố con người” trong quá trình phát triển xã hội. Đó là điểm mốc quan trọng của sự hình thành quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội của Đảng Cộng sản Việ Nam. Quan điểm này tiếp tục được phát triển, hoàn thiện và cụ thể hoá qua các kỳ đại hội cho đến nay.

Trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991- 2000” (Đại hội VII) quan niệm về con người được khẳng định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”; “đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế – xã hội “lợi ích của mỗi người, của tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp”.

Trong các văn kiện đại hội VIII quan điểm coi “con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế – xã hội” tiếp tục được khẳng định, đồng thời nội hàm quan niệm về vai trò của nhân tố con người trong phát triển kinh tế – xã hội được cụ thể hoá. Phát huy nhân tố con người thực chất là giải phóng năng lực của con người và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người. Để thực hiện điều đó nghị quyết TW 5 (khoá VIII) đã xác định “giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì đó là con đường cơ bản nhất để tạo ra những con người đủ tài, trí và đức thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định ở các Đại hội IX và X với việc khẳng định: phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ là khâu đột phá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển của kinh tế tri thức.

Nhìn lại quá trình phát triển của quan niệm về con người và vai trò của con người trong thời kỳ đổi mới là sự vận dụng và phát triển những quan niệm có tính nền tảng của chủ nghĩa Mác, của Tư tưởng Hồ Chí Minh và bắt kịp quan điểm tiến bộ của thời đại (chúng tôi đã nói đến ở phần trên).

3. Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Ở những phần trên chúng ta đã đề cập đến những quan niệm mới, tiến bộ của thời đại, của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển lấy con người làm trung tâm. cốt lõi của đổi mới tư duy về phát triển là chuyển trọng tâm vào việc khẳng định vai trò, vị trí của con người với tư cách là nhân tố quyết định của phát triển, Tính quyết định của nhân tố con người thể hiện ở chỗ con người vừa là yếu tố quyết định đầu vào (vốn người, vốn xã hội, tiềm năng con người) và quy định đầu ra (chất lượng sống, phát triển con người, hạnh phúc của con người) của sự phát triển, hoặc bằng ngôn ngữ khác “phát triển do con người và vì con người”. Quan niệm mới về sự phát triển, – như đã nói ở phần trên, để trở thành quan niệm phổ biến, được sự thừa nhận ở phần lớn các quốc gia, các vùng lãnh thổ thành viên của UN nhân loại đã phải trải qua những chặng đường không bằng phẳng với bao hiểm hoạ, do chính con người gây nên, đang đe doạ tồn tại và tương lai của con người trên hành tinh Trái Đất. Cho nên sự định tâm quan niệm về phát triển xung quanh khái niệm con người không chỉ là lời giải của vấn đề nguồn lực của sự phát triển, mà quan trọng hơn cách nhìn này hướng sự phát triển đến các mục tiêu nhân văn (vì con người).

Nhưng mặt khác tính không đồng đều, không thuần nhất là thực tế của thế giới của chúng ta. Các quốc gia, các cộng đồng mặc dù hội tụ không ít những điểm chung, nhất là trong thời đại mở rộng giao lưu, thời đại toàn cầu hoá hiện nay, những khác biệt về trình độ phát triển, đặc điểm lịch sử – văn hoá, môi trường sinh tồn.v.v. là hiện thực hiện hữu khi tìm lời giải về phát triển.

Nước ta với xuất phát điểm thấp về trình độ phát triển, về căn bản là một xã hội nông nghiệp ở giai đoạn tiền công nghiệp, thì nội dung trọng tâm của khái niệm phát triển được xác định là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Khác với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các giai đoạn trước, quá trình này ở nước ta được Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là phải gắn với sự phát triển kinh tế tri thức, đặc điểm quy định trạng thái văn minh nhân loại thế kỷ XXI. Điều đó đương nhiên sẽ gia tăng tính phức tạp, những thách thức đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Về lực lượng sản xuất thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo lập những tiền đề vật chất, kỹ thuật, công nghệ, con người, phương tiện mới của quá trình sản xuất. Với đặc điểm của nước ta nội dung chính của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nay đến 2020 là “cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại” để có năng xuất lao động cao, để rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

Như đã nói ở trên công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở giai đoạn hiện nay có những đặc điểm khác với những năm 60 của thế kỷ XX, ở chỗ thời điểm bắt đầu. Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm thực hiện công nghiệp hoá những năm trước đổi mới, kết hợp với nhận thức mới về đặc điểm của thời đại, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đã có những điều chỉnh phù hợp với tình hình hiện nay. Sự điều chỉnh đó thể hiện ở những điểm chính sau: 1/ Công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại ho á. Hàm ý về sự gắn kết hai quá trình này chính là rút ngắn quá tình công nghiệp hoá bằng nâng cao hiệu quả của quá trình chuyển giao công nghệ để nhanh chóng bắt nhịp với dòng phát triển chung của thế giới; 2/ Kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý, điều tiết kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu thay vào đó là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của nhà nước; 3/ Huy động sức mạnh của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cả thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại, họp tác, cạnh tranh lành mạnh; 4/ Hướng đến quốc tế hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; 5/ Gắn với sự phát triển kinh tế tri thức. Những đặc điểm này chi phối những lời giải bài toán công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở nước ta.

Một trong những thách thức lớn liên quan đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay chính là vấn đề con người, nguồn lực con người. Sự nhấn mạnh giáo dục, đào tạo như là khâu then chốt của chiến lược phát triển đất nước mà các Đại hội Đảng IX, X và XI đặt ra chính là để giải đáp nhiệm vụ này. Và điều đó cũng cho thấy vấn đề xây dựng nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập liên quan đến “trình độ dân trí, trình độ của người lao động, thái độ, thói quen sản xuất lớn của người lao động trong nền sản xuất hàng hoá”. Thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay cho thấy những bất cập này là rất lớn, nếu không có định hướng giải quyết đồng bộ, căn bản và lâu dài sẽ là nguyên nhân cản trở sự phát triển của đất nước. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp với sự khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao, giữa sự dồi dào lực lượng lao động trẻ với số lao động được đào tạo nghề.v.v. đó là những thách thức rất lớn của sự phát triển ở nước ta hiện nay.

Những giải pháp chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá gồm nhiều cấp độ khác nhau phải giải quyết. Điều quan tâm ở đây chính là sự hình dung mô hình tổng thể về con người của công cuộc đổi mới hiện nay. Trong “Cương lĩnh xây dụng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ” mô hình con người được mô tả như sau: xây dựng con người “có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi; sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quổc tế chân chính”.  Văn kiện đại hội IX kế thừa và cụ thể hoá tư tưởng nêu trên như sau: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trên cơ sở những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, PGS.TS Hồ Sỹ Quý đã đưa ra phác hoạ về nội dung của quan điểm phát triển con người ở giai đoạn hiện nay như sau:

1/ Con người Việt Nam trong thế kỷ XXI là con người có năng lực sinh thể khỏe mạnh và năng lực tinh thần cao đẹp.

Muốn vậy, việc thực hiện các chỉ số cụ thể của phát triển con người là cả một quá trình đồng bộ, có sự cố gắng của toàn xã hội nhằm mở rộng hơn nữa cơ hội cho sự lựa chọn và tăng cường hơn nữa năng lực lựa chọn cho tất cả mọi người.

Vì vậy, cần phải coi hệ thống các tiêu chí đặc trưng cho phát triển con người là mục tiêu tổng quát để xây dựng con người theo hướng phát triển toàn diện. Nếu các chỉ số này được cải thiện đồng bộ, hợp lý thì yêu cầu về sự phát triển con người một cách toàn diện – con người Việt Nam có năng lực sinh thể khỏe mạnh và có năng lực tinh thần cao đẹp sẽ được đảm bảo. Đối với nước ta, mục tiêu tổng quát để phát triển con người gồm hệ thống các chỉ số đặc trưng:

– Nền kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững (khoảng trên 7%/ năm) từ đó tăng tỷ lệ GDP trên đầu người.

– Cải thiện được chỉ số tuổi thọ và giáo dục.

– Cải thiện được chỉ số nghèo khổ tổng hợp (hay nghèo khả năng phát triển con người – HP).

– Tăng cường an sinh xã hội; giải quyết đồng bộ các vấn đề kinh tế với các vấn đề xã hội, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

2/ về các phẩm chất tinh thần, con người Việt Nam phát triển toàn diện được xây dựng theo các tiêu chí sau:

– Đối mặt với những thách thức của thế kỷ XXI, con người Việt Nam, trước hết là những người yêu nước, có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, biết góp phần cùng cộng đồng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

– Đáp ứng nhũng đòi hỏi không ngừng của sự tiến bộ, con người Việt Nam phát triển toàn diện là người lao động có trí tuệ, lao động – sáng tạo; hàm lượng trí tuệ trong lao động ngày càng cao.

Những yếu tố về chất lượng người lao động thường bao gồm thể chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, yêu cầu sử dụng của các ngành sản xuất, vốn và trang bị kỹ thuật. Trình độ của người lao động bao gồm trước hết là tri thức: tri thức văn hoá và tri thức nghề nghiệp bao gồm cả “tay nghề” và “trí nghề”. Dựa trên nền tảng tri thức văn hoá nói chung, người lao động phải được đào tạo tay nghề và trí nghề một cách bài bản, chính quy. Tất cả những yếu tố này hiện ở nước ta đều chưa hoàn chỉnh. Do vậy, phải xây dựng được hệ thống giáo dục đồng bộ và có chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của việc xây dựng con người.

– Trong quá trình toàn cầu hoá, con người Việt Nam phát triển toàn diện là con người có văn hoá; nghĩa là, con người mang văn hoá Việt Nam, biết phát huy bản sắc dân tộc của văn hoá đồng thời biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Hiện nay, toàn cầu hoá nói chung được nhìn nhận từ hai chiều – vừa tạo ra cơ hội vừa là nhân tố thách thức sự phát triển đối với tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển. Nhưng, việc nắm bắt được cơ hội đó ở mức nào lại tuỳ thuộc đáng kể vào nội lực của từng quốc gia, dân tộc và nội lực của từng cá nhân, về phương diện xây dựng con người, toàn cầu hoá cho phép đa số tiếp xúc được nhiều hơn với văn hoá, văn minh nhân loại. Nhưng học tập được cái gì, hay biến đổi như thế nào, điều này lại phụ thuộc vào bản lĩnh văn hoá của mỗi con người. Nghĩa là, bản sắc văn hoá, bản lĩnh làm người là cái cần phải được rèn luyện, cần phải bảo tồn bằng mọi giá, để bảo vệ những nét tốt đẹp trong tâm hồn người Việt. Bản sắc văn hoá Việt Nam, bản lĩnh làm người Việt Nam chắc chắn là một phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện đại.

Về bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam thể hiện ở những phẩm chất của con người Việt Nam. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta xác định rõ, những phẩm chất đó là “những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống.”

Những thắng lợi của Việt Nam trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng và đặc biệt trong giai đoạn đổi mới đã cho thấy việc chứ trọng đến con người và nhân tố con người là tư tưởng hoàn toàn đúng đắn, là vốn kinh nghiệm quý giá để Việt Nam tiếp tục phát triển. Có cơ sở đế khẳng định rằng, con người – nguyên nhân cuối cùng của mọi thất bại, cơ sở sâu xa của mọi thành công.

Trên đây là một số nội dung chính của chuyên đề. Nhưng chúng tôi muốn lưu ý rẳng đây là những vấn đề phức tạp, mở và còn tương đối mới ở nước ta. Vì vậy, đối với tất cả sinh viên tham gia thảo luận vấn đề này cánh cửa luôn để ngỏ cho những tìm tòi, sáng tạo.

Xem thêm Quan điểm cơ bản về con người

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận