Học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin

Đang tải...

Học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác

1. Những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước

1.1. Cuộc cách mạng về phương pháp do Mác, Ăngghen thực hiện trong nghiên cứu về nhà nước

Nhà nước là hiện tượng lịch sử đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của các cộng đồng người, của các dân tộc và với số phận của mỗi cá nhân, vì thế ngay từ thời cổ đại (phương Đông và phương Tây) cho đến tận ngày nay nhà nước vẫn là một trong những chủ đề lớn của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, của các nhà chính trị, các nhà quản lý và của các công dân. Trong kho tàng lý luận về nhà nước nghiên cứu triết học không chỉ xuất hiện sớm nhất về mặt lịch sử, mà còn là nền tảng về lý luận và phương pháp cho các khuynh hướng nghiên cứu khác. Đó cũng là lễ tại sao cho đến ngày nay khi nhà nước đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác nhau (sử học, luật học, .chính trị học, khoa học quản lý, xã hội học, tâm lý học.) nhưng vẫn rất cần đến tri thức triết học về nhà nước.

Một trong những đóng góp quan trọng của các nghiên cứu triết học về nhà nước chính là ở chỗ triết học, khác với nhiều ngành khoa học khác, hướng vào việc xác lập phương pháp luận nhận thức đối tượng.

Trước triết học Mác, chúng ta đều thấy những nghiên cứu về nhà nước đã được đề cập đến từ rất sớm trong các công trình của nhiều nhà triết học: Platon, Aristốt, Xixêron, Polibi, Khổng Tử, Hàn Phi, Auguxtin, Tômát Đacanh, Mackiavelli, Hôpxơ, Lốckơ, Montexkie, Rutxụ, Cantơ, Hêghen.v.v. Học thuyết về nhà nước của các nhà triết học trước Mác đã để lại không ít những luận điểm, tư tưởng có giá trị phổ biến đến ngày nay, nhưng ở mức độ này, hoặc mức độ khác họ chưa thoát ra khỏi quan điểm duy tâm về nhà nước, chưa làm rõ bí ấn thực sự của hiện tượng nhà nước trong sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử.

Để xây dựng học thuyết mới về nhà nước các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác một mặt đã phê phán triệt để các học thuyết về nhà nước trước đó, đặc biệt là quan điểm duy tâm của Hêghen. Nhưng cái quan trọng hơn là các ông đã đưa ra cách tiếp cận, cách nhìn mới về nhà nước trên cơ sở quan điểm biện chứng duy vật về lịch sử. Câu hỏi đặt ra ở đây là thực chất của cách tiếp cận mới – cách tiếp cận cho phép khắc phục những hạn chế của các học thuyết về nhà nước trước Mác và chỉ ra bí ẩn thực sự của hiện tượng nhà nước, của Mác và Ảngghen về nhà nước là gì?

Một cách vắn tắt chúng ta có thể hình dung cách tiếp cận mới của Mác và Ảngghen về nhà nước như sau:

Để trả lời câu hỏi nhà nước là gì cần thông qua việc xem xét, kiến giải thế nào về quan hệ giữa nhà nước và xã hội? (khái niệm “xã hội công dân” được Mác và Ăngghen sử dụng trong giai đoạn này đồng nghĩa với khái niệm “xã hội”). Trong tác phẩm “Phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen” Mác đã chỉ rõ cách tiếp cận của ông đối lập với Hêghen về vấn dề nêu trên. Theo Mác điểm mấu chốt và cũng là hạn chế căn bản của những kiến giải của Hêghen về quan hệ giữa “nhà nước” và “xã hội công dân” là ông coi “xã hội công dân” là sản phẩm, hệ quả của nhà nước. Và đương nhiên lôgic của việc truy tìm nguồn gốc của nhà nước, – theo cách hình dung của Hêghen, sẽ đưa đến chỗ thừa nhận bản nguyên tinh thần của nhà nước, ở đây chưa bàn đến hệ quả chính trị của quan điểm này mà về mặt nhận thức quan điểm này đưa đến “ngõ cụt” trong kiến giải sự vận động của nhà nước. Vậy quan điểm của Mác về vấn đề này thế nào? về điều này chính Mác đã viết như sau: “Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất, mà toàn bộ đã được Hêghen,., gọi gộp chung “là xã hội công dân”, và việc giải phẫu xã hội công dân này thì phải tìm ở khoa kinh tế chính trị”. Từ những lời giải thích trên, chúng ta cần chú ý tới những điểm sau đây: Thứ nhất, xuất phát điểm giải thích hiện tượng nhà nước của Mác là sự “lật ngược” với cách tiếp cận của Hêghen, nhà nước là hệ quả của sự phát triển của xã hội công dân, cho nên muốn hiểu được bản chất của nhà nước, sự thay đổi và phát triển của nó thì phải xuất phát từ phân tích những biến đối của xã hội công dân. Đây chính là tinh thần căn bản của quan niệm duy vật lịch sử về nhà nước. Thứ hai, sự vận động của phương thức sản xuất là nguyên nhân sâu xa, căn bản nhất quy định sự vận động, phát triển của nhà nước với tư cách ià một bộ phận của kiến trúc thượng tầng.

1.2. Khái niệm nhà nước 

Trong hệ thống chính trị nhà nước là yếu tố quan trọng nhất – “xương sống” của hệ thống. Nhận định này được rút ra từ sự thừa nhận vai trò của nhà nước đối với sự vận hành, phát triển của hệ thống chính trị – xã hội: 1/ Nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng và kiểm soát “các hoạt động phối họp và quan hệ” của các giai cấp, tầng lóp (nhóm xã hội) và của các cá nhân; 2/ Nhà nước là cơ quan quyền lực trung tâm của xã hội, nó có vai trò quyết định trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách liên quan đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nhưng mặt khác quan niệm như trên về vai trò của nhà nước đã đưa đến nhận thức cả trong quan niệm hàng ngày và trong lý luận về sự đồng nhất tương đối giữa nhà nước – quyền lực – chính trị. Sự không rõ ràng trong những phân định các yếu tố trên đã tồn tại trong các học thuyết triết học về nhà nước từ thời kỳ cổ đại. Điều này hàm ý nhắc chúng ta phải chú ý tới sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu – nhà nước. Vì vậy sự tồn tại của nhiều học thuyết khác nhau về nhà nước cũng là lẽ đương nhiên.

Trong chuyên đề này khái niệm nhà nước được giới hạn trong cách tiếp cận của học thuyết Mác – Lênin, tức là nghiên cứu nhà nước trên cơ sở học thuyết giai cấp, nói cách khác lôgic lý luận của học thuyết được định tâm vào việc lý giải vì sao, giai cấp nào đó có thể nắm giữ, chi phối quyền lực nhà nước và từ đó xác định điều kiện, tiền đề để giai cấp vô sản có thể trở thành chủ thể của nhà nước trên con đường xây dựng xã hội mới.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”. Ăngghen chỉ rõ: Nhà nước ra đời là do sự phân chia xã hội thành các giai cấp, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; nhà nước là nhà nước của giai cấp mạnh nhất, thống trị về kinh tế và giai cấp này với sự trợ giúp của nhà nước mà trở thành giai cấp thống trị về chính trị. nghĩa là nó có được những phương tiện mới đế bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Với nghĩa đó luận điểm sau đây của Mác và Ảngghen đã lột tả rất rõ ràng quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất của nhà nước: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”. Vì thế về nguyên tắc không thể có nhà nước đứng trên hoặc trung lập giữa các giai cấp. Những kết luận này của chủ nghĩa Mác không chỉ khác về căn bản với tất cả các giải thích trước đó về nguồn gốc của nhà nước, mà quan trọng hơn chính là ở chỗ nó xác lập tiêu chí khoa học chỉ dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là nó, – giai cấp vô sản, phải nắm lấy bộ máy nhà nước, phải trở thành chủ thể cơ quan quyền lực nhà nước.

Bên cạnh việc chỉ ra bản chất giai cấp của nhà nước các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh rằng nhà nước còn tồn tại với tư cách là hình thức tổ chức xã hội nói chung, nghĩa là nó phải thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều tiết những công việc chung của xã hội. Nhưng cần lưu ý rằng ngay trong trường họp này nhà nước cũng tồn tại với tư cách là cơ quan quyền lực cưỡng chế đối với toàn xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu phù hợp với định hướng chính trị của giai cấp cầm quyền. Nhưng ở đây cần lưu ý rằng quan hệ giữa nhà nước và xã hội là quan hệ phức tạp, nó không đồng nhất với nhau, nhưng xã hội chỉ có thể phát triển bình thường, năng động khi cơ cẩu nhà nước – xã hội có được tính thống nhất. Điều này sẽ trở nên quan trọng nhất là trong những tình huống biến động về chính trị.

Phân tích hệ thống lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin chúng ta thấy khái niệm nhà nước còn được các tác gia kinh điển xem xét như một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Với lát cắt này khái niệm nhà nước được phân tích trên những mặt sau đây: thứ nhất, nhà nước được xác định là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng; thứ hai, trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng của xã hội nhà nước bị quy định bởi tính chất của các quan hệ sản xuất và của phương thức sản xuất nói chung. Mối quan hệ phụ thuộc của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng là nguyên lý quan trọng giúp kiến giải khoa học về nguồn gốc của nhà nước, của sự tồn tại, phát triển và thay đổi của nhà nước. Nhưng mặt khác nhà nước không chỉ lệ thuộc thụ động vào cơ sở hạ tầng, mà nó còn tác động trở lại, trực tiếp đến cơ sở hạ tầng. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nó có thể thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng, cũng có thể là trở lực đối với nó. Các chiều tác động khác nhau của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng là một quá trình rất phức tạp, nó bị quy định bởi những yếu tố quyết định đến tính linh hoạt và khả năng thích ứng của bộ máy nhà nước trước những biến đổi của đời sống xã hội; thứ ba, sự xuất hiện, sự thay thế của các kiểu nhà nước và sự tiêu vong của nó bị quy định bởi các mâu thuẫn giai cấp.

1.3. Sự xuất hiện của nhà nước

Trong các lý thuyết triết học xã hội sự xuất hiện của nhà nước là chủ đề được bàn nhiều. Sự đa dạng về ý kiến và tần suất xuất hiện trong lịch sử triết học nói riêng và lịch sử tư tưởng nói chung cho thấy tính phức tạp của vấn đề và tầm quan trọng của nó đối với việc nhận thức và tổ chức thực tiễn các hoạt động xã hội. Trước khi nói đến kiến giải của học thuyết Mác – Lênin về vấn đề này chúng ta cùng điểm lại, dù sơ lược, một số các cách giải thích khác nhau của các nhà triết học trong lịch sử.

Aristốt trong những nghiên cứu về nhà nước và chính trị đã giải thích sở dĩ xã hội được tổ chức thành nhà nước có căn nguyên định sẵn trong chính bản chất của con người vì để tồn tại con người phải sống trong xã hội (phải liên kết với nhau) – trong cộng đồng được tổ chức dưới hình thức nhất định phù liợp với quá trình phát triển khác nhau của chúng. Hình thức tổ chức cộng đồng sơ khai, ban đầu là gia đình, sau đó là íàng xã và khi xã hội trở nên phức tạp hơn với những mâu thuẫn mới, các thiết chế tổ chức, quản lý, điều tiết cộng đồng của gia đình và làng xã không còn tác dụng điều tiết như trước nữa thì nhà nước ra đời. Sự xuất hiện của nhà nước, dưới con mắt của ông, là sản phẩm tự nhiên của những thay đổi trong đời sống cộng đồng của con người.

Trong sổ các kiến giải về nguồn gốc nhà nước ở thời kỳ khai sáng quan điểm của Robert Filmer là đáng chú ý bởi sự ảnh hưởng của tư duy cơ học trong các kiến giải xã hội. ông cho trục xuyên chi phối tổ chức cộng đồng người và đưa đến sự hình thành nhà nước là “quyền lực phụ quyền”. Sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước là để bảo vệ nguyên tắc phụ quyền và quan hệ huyết thống truyền thống, nói một cách khác nhà nước, theo ông, chẳng qua chỉ là sự mở rộng của quyền lực phụ quyền, về mặt cấu trúc sự hình thành nhà nước gắn liền với quá trình phình nở về quy mô của cộng đồng xã hội dựa trên sự mở rộng của những liên kết cơ học các tổ chức thị tộc, bộ lạc. cần lưu ý rằng cách kiến giải này dễ được người đọc hiện đại nhìn với con mắt coi thường, nhưng sự vận động zíc – zắc của lịch sử lại chứng minh sự hiện diện của mô hình này đang như những lực cản của sự tiến bộ.

Ở phương Tây thế kỷ XVII-XVIII học thuyết về nguồn gốc nhà nước có ảnh hưởng lớn nhất là học thuyết “Khế ước xã hội”. Điểm mấu chốt của học thuyết này được thể hiện ở chỗ nhà nước được hình dung như là kết quả của những thoả thuận (giao kèo) của các công dân tách một phần quyền của cá nhân để hình thành quyền lực chung đại diện cho toàn thể mọi công dân nhằm bảo vệ, thực thi quyền tự nhiên, tối thượng của các công dân. Nhưng kiến giải nguyên nhân các công dân ký hiệp ước hình thành cơ quan quyền lực chung, – nhà nước, ý kiến của các nhà triết học cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, T. Hôpxơ xuất phát từ hình dung lịch sử như là cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả, vì vậy chính sự bất an, nguy cơ đe doạ quyền sở hữu thiêng liêng của công dân và nhu cầu về sự an toàn đòi hỏi các công dân cần thoả thuận trao cho một nhóm người nào đó quyền lực mạnh để đảm bảo trật tự và chế ngự người khác. Ở đây khế ước xã hội như ghi nhận chuyển giao quyền lực từ xã hội vào tay nhà cầm quyền, nó là loại giao kèo (thoả thuận) giữa công dân với người cầm quyền (đại diện). Còn J. Rutxô thì lại kiến giải sự xuất hiện nhà nước, – theo quan điểm khế ước xã hội, một cách khác. Theo ông trước khi hình thành nhà nước con người sống biệt lập, thanh bình, hoà đồng với thiên nhiên. Sau đó do biến đổi của hoàn cảnh bên ngoài như thiên tai, chiến tranh, yêu cầu chinh phục tự nhiên đế phục vụ cuộc sống của con người, sự xuất hiện của sở hữu tư nhân là những cái đòi hỏi cộng đồng phải được tổ chức lại và để thực hiện điều đó công dân phải ký với nhau một thoả ước hình thành nên chủ quyền tập thể (mà chủ thể là dân tộc).

Một khuynh hướng khác: những người triển khai quan điểm tiến hoá của s. Đácuyn vào giải thích xã hội, lại gắn kiến giải nguồn gốc nhà nước với những cuộc đấu tranh sinh tồn và vũ lực. Luận điểm chính của quan niệm này là nhà nước đó là hình thức thống trị của những kẻ chiến thắng đối với người chiến bại, nói cách khác nó là kết quả của việc các nhóm người yếu hon, tổ chức kém hơn bị xâm chiếm bởi những nhóm mạnh hon, tổ chức tốt hơn.

Các lý thuyết này có thể cắt nghĩa những hiện tượng liên quan đến sự xuất hiện của nhà nước ở góc độ này hoặc khác, nhưng bí ẩn thực sự ẩn sau quá trình tan rã của các hình thức cộng đồng nguyên thuỷ dẫn đến hình thành nhà nước vẫn chưa được cắt nghĩa đầy đủ. Đe làm được việc này đòi hỏi những điều kiện tối thiểu sau: 1/ cần phải có cách nhìn mới về quy luật phát triển của lịch sử và 2/ Tri thức về lịch sử phát triển của xã hội loài người được tích tụ đủ để nhìn được bản chất của những liên hệ khách quan, phức tạp của vận động xã hội. Sự xuất hiện của học thuyết về nguồn gốc nhà nước của chủ nghĩa Mác chính là đã hội đủ những tiền đề trên đây và điều đó làm cho những kiến giải đó khắc phục được những hạn chế của các học thuyết trước đó và có tính khoa học nhất.

Căn cứ trên nhũng nghiên cứu quá trình ra đời và tiến hoá của nhà nước (tác phấm: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, của Ăngghen) chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng: thứ nhất, nhà nước là một hiện tượng lịch sử chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp và là sản phẩm của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các giai cấp. Trong lịch sử loài người đã tồn tại một thời kỳ rất dài – thời kỳ nguyên thuỷ, ở đó chưa có nhà nước. Ăngghen viết về điều đó như sau: “Như vậy nhà nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả. Đen một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành tất yếu.”; thứ hai, sự biến đổi của tổ chức quyền lực các thị tộc, bộ lạc thành cơ quan quyền lực nhà nước gắn liền với sự thay đối chức năng của tổ chức quyền lực từ chỗ bảo vệ lợi ích chung của toàn thế thị tộc, bộ lạc đến chỗ là cơ quan bảo vệ những lợi ích kinh tế, chính trị, tư tưởng của tầng lớp nắm tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội trong tay; thứ ba, Ăngghen mô tả con đường biện chứng của sự xuất hiện nhà nước như sau: sự phát triển của sản xuất vật chất dẫn đến sự phân hoá xã hội nguyên thuỷ và sự dư thừa của cải vật chất. Lượng của cải dư thừa bị chiếm đoạt bởi một bộ phận có un thế hơn về quyền uy, sức mạnh trong thị tộc, bộ lạc từ đó dẫn tới sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và nội bộ các thị tộc, bộ lạc bị phân chia thành các giai cấp. Quan hệ bình đẳng vốn là nguyên tắc duy trì tính thống nhất của tổ chức thị tộc bị phá vỡ. Để bảo vệ quyền lợi của mình, để bóc lột lao động thặng dư của các giai cấp không có tư liệu sản xuất và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột, giai cấp nắm quyền lực kinh tế phải xây dựng bộ máy nhà nước với tư cách là công cụ quyền lực của họ. Đó chính là căn nguyên thực sự dẫn đến sự ra đời của nhà nước.

1.4. Đặc trưng của nhà nước

Thuật ngữ “đặc trưng của nhà nước” được nói đến trong tiêu đề của phần này là rất rộng và ý kiến cũng rất khác nhau, điều này phần lớn tuỳ thuộc hệ quy chiếu được lựa chọn và khái niệm nhà nước đang được dùng với nghĩa nào. Chẳng hạn, nhà nước sẽ được bàn đến ở đây là nhà nước thành bang (City-state), nhà nước dân tộc (Nation-state), nhà nước tôn giáo (đế chế Roma thần thánh), chừng đó những dẫn dụ đủ thấy tính phức tạp của vấn đề. Vì vậy trong khảo cứu này chúng tôi chỉ dừng ở việc chỉ ra những dấu hiệu căn bản của “nhà nước dân tộc” – hình thái chín muồi của quá trình hình thành nhà nước, ở đó hội đủ cả những đặc trưng hay dấu hiệu kể cả của nhà nước thành bang và từ nhà nước dân tộc đến những biến thể như EU đang trên con đường tồn tại như một nhà nước.

Từ giới hạn như trên để nhận diện nhà nước chúng ta có thể căn cứ vào nhũng dấu hiệu chính sau đây:

1/ Lãnh thổ và chủ quyền của nhà nước:

Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước Ăngghen sử dụng khái niệm lãnh thổ với hàm nghĩa: thứ nhất, về sự thay thế mô hình tổ chức và quản lý dân cư dựa vào nơi cư trú của các công dân cho mô hình thị tộc, bộ lạc/ quan hệ giữa các thành viên dựa trên quan hệ huyết thống; thứ hai, lãnh thổ trong một quốc gia được chia thành những đon vị hành chính nhất định; thứ ba, chính quyền thiết lập sự cai quản trực tiếp với các công dân của mình.

Trong ngữ cảnh chính trị – pháp lý khái niệm lãnh thố còn hàm chứa dấu hiệu quan trọng liên quan đến đường biên giới (địa lý) của quốc gia và chủ quyền tuyệt đối của các nhà nước trong đường biên giới. Và điều này được thừa nhận trong các quan hệ quốc tế.

Chủ quyền của nhà nước thông thường được xác định với nghĩa sau: thứ nhất, quyền tự quyết của nhà nước về mọi chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc bất kỳ quốc gia nào khác; thứ hai, nhà nước có quyền lực tối cao, không hạn chế đối với các chủ thể nội bộ – những chủ thể hoạt động bên trong lãnh thổ của nhà nước; thứ ba, trong quan hệ quốc tế các quốc gia khác phải tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia, không can thiệp công việc nội bộ của quốc gia khác; thứ tư, chủ quyền quốc gia là một chế định chính trị và pháp luật chứ nó không đồng nhất với một hình thức chính trị tuyệt đối.

2/ Thiết lập quyền lực công cộng

Đặc trung này được thể hiện ở tập hợp những điểm sau:

Đe thực hiện quyền lực công nhà nước cần phải thiết lập bộ máy cai trị gồm quân đội, cảnh sát, nhà tù và một tầng lớp chuyên thực hiện nhiệm vụ quản lý.

Quyền lực công là quyền lực có tính cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị và bắt buộc các giai cấp và tầng lóp khác trong xã hội phải phục tùng.

Biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của nhà nước thống trị xã hội.

3/ Nhà nước ban hành pháp luật và buộc mọi thành viên xã hội phải thực hiện

Nhà nước là đại diện chính thống của xã hội. Đe thực hiện sự cai quản đối với xã hội, đối với mọi công dân, nhà nước ban hành hệ thống pháp luận và thực hiện sức mạnh cuống chế buộc phải tuân íhủ những quy định của luật pháp đối với mọi công dân. Trong xã hội chỉ có nhà nước có quyền ban hành pháp luật.

4/ Nhà nước quy định và tiến hành thu thuế

Nhà nước phải ban hành hệ thống thuế và tiến hành thu thuế trước hết để có ngân sách duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, để nuôi bộ máy viên chức nhà nước. Sau này cùng với gia tăng vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của xã hội thì hệ thống thuế trở thành công cụ không thể thiếu của việc quản lý, điều tiết các hoạt động của xã hội, đảm bảo sự công bằng xã hội.

1.5. Chức năng của nhà nước

Nói đến chức năng của nhà nước thực chất là xem xét phạm vi hoạt động của nhà nước nhằm thiết lập những mối liên hệ của hệ thống xã hội. Đây cũng là vấn đề còn rất nhiều tranh cãi, các ý kiến nhiều khi mâu thuẫn nhau.

Sự phân định các chức năng của nhà nước trước hết phụ thuộc các tiêu chí, trong đó quan trọng nhất là tiêu chí tính giai cấp của nhà nước. Tiêu chí này thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây: thứ nhất, nhà nước bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp nắm quyền lực kinh tế. Điều đó chủ yếu được thực hiện dưới hình thức bảo vệ quyền sở hữu chủ chốt trong hệ thống kinh tế; thứ hai, điều hoà các quan hệ lợi ích của các giai cấp, tầng lóp trong xã hội trên cơ sở những lợi ích chiến lược được lựa chọn.

Dựa trên những tiêu chí trên, hoạt động của nhà nước có thể nhóm trong một số chức năng cơ bản: Đối nội và đối ngoại.

Bản chất của những hoạt động này suy cho cùng là bảo vệ các giá trị cơ bản của giai cấp thống trị trong phạm vi quốc gia và trong quan hệ quốc tế.

Chức năng đổi nội được thể hiện chủ yếu ở những hoạt động sau: bảo vệ hệ thống chính trị – kinh tế – xã hội hiện tại; trấn áp kẻ thù giai cấp; đảm bảo trật tự, an ninh xã hội; định hướng, điều chỉnh, quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội (kinh tế, văn hoá, giáo dục, thông tin – tuyên truyền các tư tưởng chính thống.). Trong số các chức năng đối nội được nêu trên thì bảo vệ chế độ chính trị và trấn áp kẻ thù giai cấp thể hiện bản chất chuyên chính của nhà nước.

Chức năng đối ngoại bao gồm: bảo vệ lợi ích của nhà nước trong các quan hệ.quốc tế; bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và chủ quyền quốc gia; phát triển quan hệ bình thường với các nước khác; ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá thì họp tác và cùng tham gia vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng của các quốc gia.

Ngoài cách phân chia chức năng nhà nước được nói trên, một số quan điểm khác phân định chức năng của nhà nước theo những phạm vi tác động (quản lý, điều tiết, kiểm soát) của nhà nước trên những lĩnh vực cơ bản của xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục.v.v. Theo cách phân chia này tên gọi các chức năng được gắn với lĩnh vực tác động, chẳng hạn, chức năng chính trị, chức năng kinh tế.v.v. Nhưng cách phân loại chức năng như vậy không thuộc phạm vi xem xét của chuyên đề nghiên cứu này.

2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa

Từ tiêu chí của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra sự tồn tại của bốn kiểu nhà nước tương úng với các hình thái kinh tế – xã hội của xã hội có giai cấp: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chuyên đề này chúng ta sẽ chỉ khảo cứu kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Trong những phần trên chúng ta đã xem xét nhà nước từ những góc nhìn khác nhau – nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng. Mỗi góc nhìn đó cung cấp cho chúng ta hiểu biết về một phương diện nhất định của đối tượng nghiên cứu là nhà nước. Vì vậy ở đây có câu hỏi đặt ra: nghiên cứu kiểu nhà nước là nghiên cứu gì? Nói cách khác trước khi nghiên cứu những kiểu nhà nước cụ thể chúng ta cần xác định nội hàm thuật ngữ “kiểu nhà nước”. Một cách ngắn gọn “kiểu nhà nước” được hiểu là “tổng thể những đặc điểm cơ bản thể hiện bản chất giai cấp, chức năng và những điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định”7. Với cách hiểu này có thể thấy sự khác biệt giữa khảo cứu “kiểu nhà nước” với những phần trên chính là ở chỗ, trong những nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước chúng ta đã thực hiện phép trừu tượng hoá – “phi lịch sử hoá” đối tượng nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm chung nhất của nó, thì trong phần này công việc của người nghiên cứu được thể hiện như là quá trình ngược lại – nghiên cứu đối tượng trong lịch sử cụ thể của nó. Như vậy nghiên cứu một kiểu nhà nước cụ thể chúng ta sẽ lặp lại về lôgic hệ vấn đề liên quan đến nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước với những đặc điểm cụ thể của nó. Đây cũng chính là lôgic chúng ta sẽ tiếp cận trong nghiên cứu kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan

Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là hiện thực lịch sử gắn với hai mốc lịch sử lớn của thế kỷ XX: thời kỳ thứ nhất – sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất với Nhà nước Liên bang Xôviết và Nhà nước Mông cổ; thời kỳ thứ hai – sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai là sự ra đời của một loạt nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các nước đông Âu và ở châu Á là Việt Nam, Trung Quốc. Tuy nhiên về lý luận C. Mác, Ph. Ăngghen và sau này là V.I. Lênin trên cơ sở phân tích những mẫu thuẫn của sự phát triển của các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản và sự lớn mạnh của phong trào công nhân đã khẳng định tính tất yếu của sự ra đời của nhà nước vô sản (hay nhà nước xã hội chủ nghĩa).

Kết luận về tính tất yếu nói trên của các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin được kiến giải trên những bỉnh diện sau:

Thứ nhất, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tích tụ trong lòng nó nhũng tiền đề khách quan (họp quy luật) cho sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện như sau: 1/ Nếu ở thời kỳ đầu của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc thì những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với lực lượng sản xuất xã hội hoá cao ngày càng trở nên gay gắt. Một biểu hiện cụ thể của tình trạng này là nhờ sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ tổng lượng của cải làm ra trong xã hội tăng lên một cách nhanh chóng, nói cách khác là ngày càng giàu có hơn, nhưng tình trạng bất bình đẳng về lợi ích cũng gia tăng, sự tích tụ phần lớn của cải vào tay một nhóm các nhà tài phiệt làm cho khoảng cách giàu nghèo tuyệt đối trong xã hội ngày càng tăng. Theo Mác chủ nghĩa tư bản tự nó không thể giải quyết được triệt đế mâu thuẫn này. Vì vậy chính yêu cầu giải phóng sức sản xuất của xã hội đòi hỏi một cuộc cách mạng nhằm thiết ỉập quan hệ sản xuất mới phù họp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lôgic của cuộc cách mạng đó dẫn đến sự xuất hiện kiểu nhà nước mới với tư cách công cụ bảo vệ phương thức sản xuất mới. Đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa; 2/ Từ những mâu thuẫn kinh tế nói trên đưa đến hệ quả tiếp theo là sự xuất hiện của những tiền đề chính trị – xã hội cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản, – với tư cách là đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, ngày càng phát triển về số lượng và đặc biệt là về chất lượng. Sự phát triển của giai cấp vô sản về chất lượng thể hiện ở: tính tự giác về lợi ích chung của cả giai cấp; tính tổ chức kỷ luật ngày càng cao; sự hình thành bộ tham mưu lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là chính Đảng Cộng sản được trang bị bằng tư tưởng, lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là những tiền đề quan trọng đế giai cấp vô sản tiến hành cuộc cách mạng vô sản và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, xoá bỏ chế độ bóc lột người và những nguyên nhân cơ bản của sự tha hoá con người do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tạo ra, giai cấp vô sản phải thiết lập nền chuyên chính của minh. Nghĩa là nó phải chiếm lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản và sử dụng chính quyền để bảo vệ thành quả cách mạng của rnình và xây dựng xã hội mới. Điều đó được chủ nghĩa Mác khẳng định như là điều kiện trước tiên đảm bảo sự thắng lợi của giai cấp vô sản. Và thực tế lịch sử phát triển của nhân loại từ khi chuyển sang xã hội có giai cấp cũng chứng minh việc giành lấy quyền lực nhà nước và sử dụng nhà nước đế bảo vệ lợi ích giai cấp là quy luật khách quan của lịch sử. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cũng không phải là ngoại lệ.

Thứ ba, xã hội cộng sản khi đạt đến sự phát triển đầy đủ sẽ không còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, vì thế đến lúc đó nhà nước cũng không còn theo đúng nghĩa là công cụ bạo lực trấn áp giai cấp đối kháng. Nhưng sẽ là không tưởng nếu hình dung sau khi lật đổ giai cấp tư sản, chủ nghĩa cộng sản sẽ xuất hiện ngay lập tức. về lý luận chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” . Giai đoạn quá độ được Mác nói đến ở trên chính là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn còn được gọi là chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tức là công cụ chuyên chính của giai cấp vô sản, vẫn là một tất yếu khách quan. Cảnh báo về tầm quan trọng của luận điểm trên của chủ nghĩa Mác, Lênin viết nhắc nhở như sau: “Chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp là tất yếu không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp vô sản sau khi lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp”, đến chế độ cộng sản chủ nghĩa, chỉ nhũng người đó mới thấm nhuần được thực chất của học thuyết Mác về nhà nước”.

Tóm lại từ những luận điểm đã nói trên cho thấy rằng giai cấp vô sản để đi đến mục đích cuối cùng của mình là xây dựng “xã hội không có giai cấp”, xã hội thực sự đem lại bình đẳng, công bằng, tự do cho mọi người thì trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của nhà nước là tất yếu khách quan và giai cấp vô sản phải thiết lập bộ máy nhà nước của mình và sử dụng công cụ nhà nước để thực hiện mục tiêu cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Thực tế lịch sử thăng trầm của chủ nghĩa xã hội cho thấy đây là công việc rất phức tạp ngay cả đối với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ tiền đề phát triển khá cao – chủ nghĩa tư bản, còn đối với những nước chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đương nhiên mức độ phức tạp, gay go còn gấp nhiều lần.

2.2. Đặc trưng bản chất và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Xuất phát từ luận điểm rằng nhà nước, dưới bất cứ hình thức nào, là nền chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị, là công cụ cưỡng chế đặc biệt do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập với mục đích bảo vệ sự thống trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Đặc điểm này có ở mọi nhà nước, kể cả nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để xác định bản chất của nhà nước cần phải xem xét trên những tiêu chí sau đây: cơ sở kinh tế, bản chất giai cấp, tính dân chủ và vai trò của nhà nước đối với tiến bộ xã hội.

Từ những tiêu chí này chúng ta thấy nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự khác biệt về bản chất với tất cả các hình thức nhà nước của giai cấp bóc lột trong lịch sử. Điều đó thể hiện như sau: thứ nhất, cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa theo hình dung ban đầu của các nhà kinh điến của chủ nghĩa Mác – Lênin là những quan hệ sản xuất có nền tảng là sở hữu công cộng (trong chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu họp tác xã). Nhưng những biến đối thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là sau những năm 90 của thế kỷ XX quan niệm này được mở rộng phù hợp với sự phát triển hiện thực lịch sử. Hiện nay cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa được hiểu đó là tổng thể các quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở kinh tế của xã hội vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng giữ vị trí then chốt; thứ hai, về mặt giai cấp nhà nước xã hội chủ nghĩa là nền chuyên chính của giai cấp vô sản và của nhân dân lao động. Tính giai cấp được biếu hiện ở những đặc điểm sau của nhà nước xã hội chủ nghĩa: chính quyền thuộc về nhân dân (trước hết là của giai cấp công nhân và người lao động); giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản, – đội tiên phong của giai cấp công nhân, thực hiện sự lãnh đạo toàn diện nhà nước; nhà nước xã hội chủ nghĩa đại diện và thực hiện quyền và lợi ích của giai cấp công nhân và của toàn thể nhân dân lao động; thứ hai, tính dân chủ là thuộc tính cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thuộc tính này xuất phát từ chỗ nhà nước xã hội chủ nghĩa về bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân quyết định trong việc xây dựng nhà nước thông qua việc lựa chọn đại diện của mình tham gia bộ máy nhà nước, giám sát mọi hoạt động của nhà nước và ngược lại nhà nước có nhiệm vụ không chỉ bảo vệ lợi ích, quyền của nhân dân, mà còn tạo dựng môi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi cho sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính vì lẽ đó Lênin đặc biệt nhấn mạnh củng cố và mở rộng dân chủ như là yêu cầu sống còn trong điều hành, quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, người viết: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”; thứ ba, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đặc biệt quan trọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện mục tiêu chính xây dựng xã hội mới, xoá bỏ mọi bất công trong xã hội. Nghĩa là ở đây nhiệm vụ tổ chức, xây dựng là nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chứ nó không đơn thuần chỉ là bộ máy cưỡng chế đối với xã hội như các nhà nước trước đây.

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét những chức năng chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa, cần phải nói rằng giữa chức năng và bản chất của nhà nước có quan hệ phụ thuộc chặt chẽ trong đó bản chất quyết định đến chức năng, đồng thời bản chất tốt đẹp của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thể hiện và hiện thực hoá thông qua những hoạt động cơ bản của nhà nước trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội như thế nào?

Khái niệm “chức năng” của nhà nước nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng trên thực tế hàm chỉ những phương diện hoạt động của nhà nước. Những hoạt động này bị quỵ định bởi những yếu tố sau: 1/ Bản chất của nhà nước – yếu tố quan trọng nhất; 2/ Mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; 3/ Những biến động khách quan của tình hình chính trị – kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến nội dung của những chức năng của nhà nước trong những giai đoạn phát triển khác nhau. 

Về cơ bản nhà nước có những chức năng chính sau đây:

Thứ nhất, chức năng đối nội. Chức năng này của nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung sau: bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đây được coi là chức năng tiên quyết của nhà nước xã hội chủ nghĩa; thực hiện, bảo vệ, phát huy các quyền tự do dân chủ của nhân dân thông qua việc nhà nước ban hành các thiết chế, công cụ có hiệu lực nhằm đảm bảo trên thực tế các quyền nói trên của người dân; nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật và tính hiệu lực của pháp luật; nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện việc tổ chức, quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tể, văn hoá, khoa học, giáo dục.v.v.

Thứ hai, chức năng đổi ngoại. Chức năng đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở hai nội dung chính sau: bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, củng cổ và xây dựng nền quốc phòng, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia, đảm bảo hoà bình on định cho sự phát triển đất nước; củng cố, mở rộng và phát triến quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác tạo điều quốc tế thuận lợi để bảo vệ, xây dựng, phát triển dất nước và đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh vì một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển.

Về mặt lý thuyết chúng ta có thể tạm tách bạch một cách tương đối chức năng đối nội và đối ngoại để nhận thức, xem xét những lĩnh vực hoạt động cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng về bản chất hai chức năng này luôn hoà quyện, ràng buộc, quy định lẫn nhau như là những phương tiện để đạt được những mục tiêu chiến lược nhất định.

Điểm cuối cùng chúng tôi muốn nói đến ở đây là việc thực hiện có hiệu quả hay không các chức năng nói trên của nhà nước còn phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và đặc biệt là yếu tố chủ quan như mức độ hoàn thiện của hệ thống thể chế và tổ chức, năng lực của đội ngũ quan chức và viên chức nhà nước. Những điều đó nhắc nhử sự cần thiết phải chú ý tới tính phức tạp của hoạt động của bộ máy nhà nước.

2.3. Một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước ở Việt Nam

ThángTám năm 1945 là thời điểm đặc biệt của lịch sử Việt Nam hiện đại. Đó là thời điểm hội đủ điều kiện khách quan và chủ quan để giành độc lập dân tộc từ tay các thế lực ngoại xâm. Nhân tố khách quan đó là sự thay đổi có tính bước ngoặt của cục diện chính trị thế giới: Liên Xô chiến thắng Phát xít Đức, Phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng Minh. Nhân tố chủ quan đó là sự hình thành các tổ chức chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đủ sức tập họp sức mạnh toàn dân giành độc lập dân tộc, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. cần nhấn mạnh rằng ở Việt Nam thời điểm đó Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị duy nhất có khả năng tập hợp, lãnh đạo quần chúng chóp thời cơ đánh đuổi phát xít Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân và bảo vệ được nền độc lập non trẻ trước những áp lực mới xuất hiện sau Cách mạng tháng Tám.

Về hình thức của Nhà nước Việt Nam mới được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phù họp với những nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn của cách mạng: Hiến pháp 1946 và 1959 quy định chính thể nhà nước ta là dân chủ cộng hoà; Hiến pháp 1980 và 1992 quy định là chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Dù hình thức chính mang một bản chất duy nhất – nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Thực tiễn xây dựng nhà nước ta trong hơn nửa thế kỷ vừa qua khẳng định tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là những quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển của nhà nước ta từ 1946 đến nay. Vì vậy nắm được và vận dụng quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước là yêu cầu không thể thiếu đối với những ai muốn tìm hiểu và góp sức vào công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay.

Sau đây là một số luận điếm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về nhà nước và xây dựng nhà nước.

1. Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ – đây là quan điểm quan trọng nhất của Hồ Chí Minh về nhà nước. Nó xác định rõ bản chất của nhà nước do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, xây dựng là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân lao động. Quan điểm này xuyên suốt và chi phối toàn bộ thực tế xây dựng, hoàn thiện, phát triển nhà nước ta từ 1945 đến nay.

Nhân dân lao động là chủ íhể tuyệt đối, duy nhất của nhà nước được thể hiện ở những điểm chính sau đây: thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định mọi hoạt động của nhà nước đều vì quyền lợi của nhân dân, nói cách khác mục tiêu của nhà nước Việt Nam mới không có gì khác hơn là phục vụ, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân lao động (“Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”; thứ hai, quyền lực của nhân dân lao động đối với nhà nước được quy định bởi bản chất của nhà nước ta và được đảm bảo bởi các chế định dân chủ; thứ ba, nhân dân có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước, lựa chọn (thông qua bầu cử), giám sát, bãi miễn các thành viên của cơ quan quyền lực nhà rìước.

2. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam – theo lý luận của chủ nghĩa Mác nhà nước là phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện và tồn tại khi xã hội còn giai cấp, vì thế nhà nước bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp nhất định. Trong các xã hội trước đây, bản chất giai cấp của nhà nước đều do bản chất của giai cấp thống trị quy định. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở bản chất giai cấp công nhân của nó. Đối với nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là không thay đổi, ở đây cần hiểu khái niệm “của dân, do dân, vì dân” là sự nhấn mạnh, chỉ rõ tính nhân dân, tính dân chủ của nhà nước ta. Đây chính là một trong những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng quan niệm về tính giai cấp của nhà nước trong lý luận của chủ nghĩa Mác phù họp với hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của Việt Nam.

Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước theo Hồ Chí Minh được xác định qua những tiêu chí sau: thứ nhất, Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước – đây được coi là nguyên tắc cơ bản đảm bảo, củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của nhà nước; thứ hai, cơ sở giai cấp của nhà nước Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên minh công nhân – nông dân – trí thức làm nòng cốt do giai cấp công nhân lãnh đạo; thứ ba, bản chất mô hình nhà nước ta được Hồ Chí Minh lựa chọn đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó là công cụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – đây là một trong những tư tưởng hình thành rất sớm của Hồ Chí Minh về nhà nước. Trong các trước tác của mình Hồ Chí Minh ít phát biểu về những khía cạnh lý luận thuần tuý về nhà nước pháp quyền, sự chú của người là tập trung xây dựng hiến pháp, pháp luật theo nguyên tắc CO’ bản của nhà nước pháp quyền (tính tối thượng của luật pháp và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) và chú trọng đến việc phải đưa luật pháp vào cuộc sống, tức là chú ý đến tính thực tiễn và làm thế nào để luật pháp được thực thi trong cuộc sống xã hội.

4. Về xây dựng bộ máy nhà nước – đây là một nội dung được Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý, được thể hiện trong hệ thống những quan điểm về nhà nước và thực tiễn hoạt động lãnh đạo nhà nước với tư cách là Chủ tịch đầu tiên của nhà nước Việt Nam mới.

Trước hết việc xây dựng nhà nước khẳng định phải lấy quan điểm phục vụ nhân dân làm nền tảng. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định nhiều lần trong các tác phẩm ở các thời kỳ khác nhau. Để thực hiện nguyên tắc này thì điểm mấu chốt là phải làm thế nào để mọi hoạt động, mọi chủ trương, chính sách của “Đảng” và “Chính phủ” đều “chỉ nhằm ” nâng cao đòi sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Mặt khác xây dựng nhà nước mới thực sự vì nhân dân phải đi đôi với việc chống lại kiên quyết, thường xuyên các đặc quyền, đặc lợi và các tiêu cực nảy sinh trong bộ máy nhà nước như tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Chính Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ “giặc nội xâm” mà chúng ta hay dùng hiện nay để ám chỉ những kẻ lợi dụng địa vị, chức quyền trong hệ thống quyền lực nhà nước nhằm mưu cầu quyền lợi riêng, làm tổn hại cho sự phát triển của dân tộc. Quan điểm này nếu nhìn từ sự bức xúc của tệ nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước và cơ quan công quyền hiện nay ở nước ta, chúng ta sẽ càng thấy rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận điểm này của Hồ Chí Minh.

Để xây dựng bộ máy nhà nước thực sự vì nhân dân Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý tới việc xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức. Người cán bộ, công chức nhà nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó phải là những người vừa có đức, vừa có tài, nghĩa là những người có những phẩm chất chính sau đây: có lòng trung thành với Nhà nước, với chế độ; có lòng nhiệt tình với công việc, thạo việc; có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; dám chịu trách nhiệm trong công việc; có chí tiến thủ.v.v.

Trên đây là một số luận điểm cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dụng Nhà nước “Việt Nam mới” – Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực tiễn của quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước ta trong những thập kỷ qua theo tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng thuyết phục nhất cho tính đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước chính là nền tảng lý luận cho công cuộc đổi mới, hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Điều này đã được khẳng định trong các văn kiện chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xem thêm Phương pháp luận kinh tế – xã hội

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận