Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan – Để học tốt Ngữ Văn 7

Đang tải...

 QUA ĐÈO NGANG

– BÀ HUYỆN THANH QUAN –

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1/ Tác giả

            – Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống nửa đầu thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội.

            – Gia đình: Xuất thân trong một gia đình quan lại, có học vấn, giỏi làm thơ, bà từng được vua mời vào cung dạy học cho các công chúa. Chồng bà là tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), do đó mà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan.

            – Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa. Sự nghiệp thơ ca của bà tuy ít nhưng giá trị rất cao, hiện giờ chỉ để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, bài “Qua Đèo Ngang” là một bài trong số bài thơ nổi tiếng đó.

            – Các bài thơ Nôm của bà đều thuộc thơ đề vịnh. Thơ của bà thường mang âm hưởng buồn, hay nói đến hoàng hôn, bóng xế. Cảnh trong thơ như những bức tranh thuỷ mặc được chấm phá qua một vài chi tiết tiêu biểu được diễn đạt bằng nghệ thuật ước lệ. Giọng điệu thơ man mác, ngôn ngữ đẹp, trang nhã.

2/ Tác phẩm

            – Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang. Đây là địa danh phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bỉnh và Hà Tĩnh, nơi đây có núi cao, biển rộng, là một nhánh núi của dãy Trường Sơn.

            “Qua Đèo Ngang” được tác giả sáng tác vào lúc chiều tà, trên đường vào kinh đô Huế, nhìn cảnh thiên nhiên thoáng đãng, hoang sơ, chỉ có một thân, một mình bơ vơ nên bà cảm thấy nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

1/ Về nội dung

            – “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút, miêu tả thiên nhiên vào lúc chiều tà bóng xế.

            – Cảnh tượng Đèo Ngang qua sự miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan được miêu tả quan sát từ nhiều góc độ khác nhau, đứng từ trên cao nhìn xuống dưới và nhìn ra xa.

            – Bức tranh cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ, nét chủ đạo là một không gian hoang vắng, thời gian tàn bóng, cảm giác của lữ thứ trên con đường tha hương đượm nỗi buồn cô liêu và tâm trạng nhớ nhà bâng khuâng. Bài thơ vịnh cảnh trở thành bức tranh tâm trạng. Mượn cảnh nói tình, lấy cái bao la mênh mang rộng lớn của vũ trụ để thấy sự tương phản với con người nhỏ bé, phù du. Cảnh buồn nhưng sự sống vẫn tiếp diễn, tác giả trực tiếp nói lên tâm tư của mình: “một mảnh tình riêng ta vối ta”, sự cô đơn buồn mà đẹp.

            – Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu thiên nhiên đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã, cổ điển.

2/ Về nghệ thuật

            – “Qua Đèo Ngang” là bài thơ Đường luật cổ điển, mẫu mực với bút pháp chấm phá tinh tế, bút pháp tương phản: (lấy động tả tĩnh, lấy cái nhỏ bé để đối lập với không gian mênh mông, rộng lớn), bút pháp tả cảnh ngụ tình.

            – Giọng điệu thơ du dương, réo rắt, nhịp điệu, âm điệu cũng góp phần thể hiện tâm trạng. Ngôn ngữ thơ trang trọng mà vẫn trang nhã, thanh tao. Phép đối và đảo ngữ được sử dụng có giá trị thẩm mĩ trong những nét tạo hình đầy khám phá

            – Cách sử dụng điển tích, điển cổ rất nhuần nhuyễn và ẩn chứa rất nhiều cảm xúc.

            – Các từ láy, từ tượng thanh được sử dụng rộng rãi mang ý nghĩa biểu cảm cao.

III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1/ Thể thơ

            Thể thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ có từ thời Đường ở Trung Quốc. Thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, có thể chia bố cục: Hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận, hai câu kết. Cách gieo vần: chỉ gieo một vần ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức bốn câu giữa) theo luật BB – TT (bằng trắc). Nếu không theo những điều trên, bị coi là thất luật (không đúng luật).

2/ Phân tích cụ thể

a/ Hai câu đề

            – Câu thơ thứ nhất: Thông báo về thời gian, không gian: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà”. Thời gian: “lúc xế tà”, không gian: “Đèo Ngang”. Không gian và thời gian được lựa chọn đều là những điểm ranh giới, giao thoa. Lúc chiều tà là khoảnh khắc giao nhau giữa ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Không gian “Đèo Ngang” “đệ nhất hùng quan” cũng là địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình.

            – Thời điểm “bóng xế tà” là lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, trời đã sắp tối, tất cả thiên nhiên vạn vật đều nhuốm màu hoàng hôn, âm “tà” gợi một nỗi buồn man mác thấm thìa từ đáy sâu tâm hồn.

            – Không gian buổi chiều xuất hiện thường xuyên trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng như trong thơ cổ (Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn; Chim bay về núi tối rồi; Nhật mộ hương quan hà xứ thị). Thời điểm của buổi chiều rất có lợi thế trong việc bộc lộ tâm trạng của nhà thơ, nhất là khi tác giả lại là phụ nữ – một người có trái tim nhạy cảm đang trên đường dời quê vào kinh thành Huế – đất khách quê người.

            – Câu thơ thứ hai bắt đầu tả cảnh sắc của Đèo Ngang: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng “đá”, “lá”, vần chân “ta”, “hoa”, gợi nên hình ảnh cỏ cây chen chúc, rậm rạp đầy vẻ hoang vu. Thiên nhiên như không có dấu ấn của con người, như từ thủa hồng hoang. Cái nhìn cận cảnh với đôi nét chấm phá đã gợi nên không khí chung của toàn cảnh.

b/ Hai câu thực

            – Điểm nhìn đã có sự thay đổi và dịch chuyển, nhìn cận cảnh chỉ thấy “đá”, “lá” “hoa” chen nhau, cho nên nữ sĩ phóng tầm mắt ra xa, đứng từ trên cao nhìn xuống dưới để bao quát sự vật. Con người đã xuất hiện trong bức tranh nhưng lại chỉ là “tiều vài chú” trong hoạt động “lom khom” vất vả gánh củi xuống núi. Dấu hiệu của cuộc sống cũng mờ nhạt, chỉ “lác đác” với “chợ mấy nhà” bên sông.

            – Nghệ thuật đảo ngữ và số từ không xác định “mấy”, “vài”, được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào ấn tượng cảm nhận về sự thưa vắng, hiu quạnh, nhỏ bé của con người và dấu hiệu sự sống. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận, không gian bao trùm vẫn là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ của chốn đèo heo hút gió nơi đất khách.

c/ Hai câu luận

            – Xuất hiện thêm yếu tố âm thanh trong bức tranh nhưng không phải là âm thanh vui tươi, náo nhiệt của cuộc sống mà chỉ gợi lên nỗi niềm “nhớ nước”, “thương nhà” đến đau lòng.

            – Điệp âm “con quốc quốc”, “cái gia gia” tạo nên âm hưởng da diết, ám ảnh như tiếng lòng người lữ khách, âm thanh hoang dã không làm bức tranh thêm động mà chỉ càng tĩnh mịch. Bà Huyện Thanh Quan đã lấy cái động để tả cái tĩnh, cái vắng lặng, cô liêu trên đỉnh Đèo Ngang vào khoảnh khắc hoàng hôn. Trong rợn ngợp không gian và âm thanh ấy, con người càng nhỏ bé và cô đơn.

            – Nghệ thuật đối được sử dụng rất tài tình, làm nổi bật nét tâm trạng của nữ sĩ: nhớ nước, thương nhà. Câu thơ gợi nhớ đến những vần thơ của Nguyễn Khuyến trong “Cuốc kêu cảm hứng”: Năm canh máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ. Tiếng chim cuốc, tiếng chim gia cũng được nhân cách hoá và thể hiện nỗi lòng của con người. Điển tích về hồn Thục Đế mất nước hay cũng là tấc lòng Bà Huyện Thanh Quan trên con đường li hương.

            – Tâm trạng “nhớ nước” “thương nhà” của Bà Huyện Thanh Quan chỉ có thể lí giải như nỗi ai hoài trứớc thế sự, thương nhớ cho triều đại cũ đã qua (triều Lê), thương nhớ kinh kì Thăng Long khi đang trên đường đặt chân vào đất Huế của nhà Nguyễn. Đó là nỗi niềm hoài cổ, tư hương ta cũng từng bắt gặp trong “Thăng Long thành hoài cổ”.

d. Hai câu kết

            – Cảm xúc ngưng đọng thành một trạng thái bồn chồn khiến nữ sĩ phải dừng chân đứng lại để bao quát cả ba chiều không gian nhưng cũng chỉ thấy: trời, non, nước vừa cao, vừa rộng, vừa sâu, con người chỉ có “Một mảnh tình riêng ta với ta”.

            – Nói đến một mảnh tình riêng giữa cảnh trời, non, nước bao la ở Đèo Ngang thì khác với cách nói một mảnh tình riêng trong một không gian chật hẹp. Trong sự đối lập con người với hoàn cảnh bao la rộng lớn thì “mảnh tình” đó càng nổi bật nỗi buồn cô đơn thầm lặng của tác giả, nỗi buồn lan toả cả vũ trụ bao la rộng lớn.

            “Ta với ta”, tuy là hai mà là một (khác với ý nghĩa: tuy một mà hai trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến) muốn nói con người cô đơn trước hoàn cảnh, một mình lẻ bóng không có ai để chia sẻ giãi bày tâm sự, không có ai đồng hành trên con đường dài xa xôi như bây giờ, một mình thi sĩ cứ lặng lẽ hành trình, để rồi viết lên những vần thơ tuyệt bút và thấm đẫm nỗi buồn hoài cổ sang trọng.

            – Qua Đèo Ngang là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Bà Huyện Thanh Quan với bút pháp cổ điển, tứ thơ đăng đối, ngôn ngữ trang trọng cổ kính. Đây cũng là một trong những bài thơ thất ngôn bát cú cổ điển mẫu mực của văn học Trung đại Việt Nam.

IV. TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO

            * Về tác giả

            Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ thời Nguyễn. Tiểu sử của bà không được đầy đủ lắm. Người ta chỉ biết bà là ái nữ của một vị danh Nho, sinh quán tại làng Nghi Tàm (nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ, năm Minh Mạng thứ hai, được bổ làm tri huyện Thanh Quan. Do đó nữ sĩ được gọi là Bà Huyện Thanh Quan hay Bà Thanh Quan. Trong “Nam thi hợp tuyển” của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có đề cập về chồng của nữ sĩ như sau: “Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang.

            Nói về bà, có nhiều giai thoại rất lí thú. Nhân một hôm ông huyện đi vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên là Nguyễn Thị Đào đến kiện người chồng phụ bạc, phế bỏ việc gia đình, hắt hủi vợ nhà, và yêu cầu quan trên cho mình được li dị với chồng. Nhận thấy nội dung lá đơn lời lẽ rất cảm động, thương cho người thiếu phụ chịu lỡ dở cuộc duyên tình phí bỏ cả ngày xanh trong cảnh cô đơn, bà Huyện liền quên cả luật pháp, phê vào lá đơn của Nguyễn Thị Đào bốn câu thơ :

“Phó cho con Nguyễn Thị Đào

Nước trong leo lẻo, cắm sào đợi ai

Chữ rằng: Xuân bất tái lai

Cho về kiếm chút, chẳng mai nữa già”.

            Do việc làm của bà mà ông Huyện bị quan trên quở trách. Nhưng cách đó chẳng lâu, ông lại được thăng chức và thuyên chuyển về Bộ hình làm chức lang trung. Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, Bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong chức Cung trung Giáo tập để dạy cho các cung nhân học. Trọng tài học của bà, vua Tự Đức có ban cho bà được đề thơ vào một cái chén cổ, có bức hoạ sơn thuỷ. Bà đã ứng khẩu đọc hai câu:

“In như thảo mộc trời Nam lại

Đem cả sơn hà đất Bắc sang”.

            Vua Tự Đức vốn thích văn chương nên thường làm thơ cho bà họa lại, bà họa rất tài nên được vua rất quý trọng. Về những tác phẩm bằng chữ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan, hiện nay chỉ còn lại những bài thơ thất ngôn: Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Đên Trấn Võ, Qua Đèo Ngang, Cảnh thu, Nhớ nhà, Cảnh chiêu hôm,…

            Phần quan trọng trong thơ văn của Bà Huyện Thanh Quan là phần hoài cổ, tiếc thương quá khứ vàng son của tiền triều. Sinh trưởng vào thời Lê mạt và Nguyễn Sơ, bà đã chứng kiến bao cảnh thay ngôi đổi vị, chiến tranh tang thương. Cái ươn hèn của con cháu Hậu Lê, vua Lê Chiêu Thống toan “rước voi về giày mả tổ”,… Bà Huyện Thanh Quan, cũng như thi hào Nguyễn Du, muốn dùng văn thơ để diễn tả “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Vốn là phận nữ nhi, bà không thể viết lên những lời nuối tiếc nhà Lê như là một di thần, nhưng bà chỉ muốn nói lên lòng tha thiết tiếc thương cho một thời rực rỡ xa xưa, bị vùi dập vì loạn li khói lửa. Trong bài “Thăng Long thành hoài cổ”, bà đã nói lên lòng thương tiếc khôn nguôi những dĩ vãng oai hùng, những thời vàng son thuở trước. Giờ đây, chiến tranh loạn lạc, bao cảnh đổi dời, đổ nát điêu tàn.

            Vốn là một trang nữ lưu tài sắc, Bà Huyện Thanh Quan, cũng như hầu hết các thi nhân kim cổ, có một nguồn tình cảm dạt dào, một tấm lòng tha thiết với gia đình. Trên con đường từ đất Bắc vào kinh đô Huế để nhậm chức Cung trung Giáo tập, qua bao gian nan, một mình phải vượt suối, trèo đèo, bà đã có dịp để lòng mình sống với hiu quạnh cô đơn. Và bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”, đã được viết ra để hổi tưởng lại những ngày sống với gia đình trong ấm ngoài êm. Nếu lòng hoài cổ thiết tha, sự thân mật với gia đình càng nồng nhiệt bao nhiêu, thì trước tạo vật, nữ sĩ cũng thấy lòng giăng trải để rộng đón những cảnh hùng vĩ của núi sông. Sự trầm mặc của Bà Huyện Thanh Quan đôi khi đã thể hiện ở bên ngoài. Ta tưởng chừng như bà là một người đa cảm, đa sầu, tâm hồn dễ rung động trước ngoại cảnh. Nhưng thật ra, nỗi buồn của nữ sĩ rất nhẹ nhàng, kín đáo. Có lẽ vì quen nếp sống cổ kính của đạo lí Khổng Mạnh, bà rất dễ dè dặt, không để tình cảm bộc lộ một cách ầm ĩ. Tuy nhiên, ta cũng thấy được phần nào nội tâm xao xuyến qua lời thơ. Lời thơ của bà rất nhẹ nhàng, dùng lời văn khuê các, đoan trang. Thơ buồn man mác trong những câu:

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.

            hoặc là:

“Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng

Một vũng tang thương nước lộn trời”.

            Và những u hoài của một lữ thứ khi hoàng hôn xuống đã được thể hiện linh động nhưng mang vẻ trầm mặc, hắt hiu:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”.

            hoặc là:

“Vàng toả non Tây, bóng ác tà

Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa”.

            Những lời thơ óng chuốt, đượm một vẻ bâng khuâng luyến tiếc, đã nói lên phần nào sự rung cảm chân thành của nữ sĩ trước tạo vật, trước thay đổi của nhân thế. Hầu hết trong thơ của bà, chúng ta có thể tìm thấy những đường nét hao hao giống tám bức cổ hoạ của Trung Hoa: Bình sa lạc nhạn (đàn chim nhạn bay xuống bãi cát), Sơn thị tình lam (cảnh chợ chiều dưới chân núi), Viễn phố quy phàm (thuyền buồm ở phố xa về), Ngư thôn tịch mịch (cảnh xóm thuyền chài buổi chiểu), Sơn tự hàn chung (tiếng chuông chùa văng vẳng trên núi), Động Đình thu nguyệt (trăng thu trên hồ Động Đình), Giang biên mộ tuyết (cảnh gần tốÍ tuyết sa ở bên sông); Tiêu Tương dạ vũ (cảnh đêm mưa trên sông Tiêu Tương)…

___

Xem thêm:

Hướng dẫn phân tích, cảm thụ văn bản Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương tại đây.

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận