Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương – Để học tốt Ngữ Văn 7

Đang tải...

BÁNH TRÔI NƯỚC

– HỒ XUÂN HƯƠNG –

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1/ Tác giả

            – Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

            – Gia đình: Nhiều sách vẫn nói bà là con của Hỗ Phi Diễn (1704-?). Ông thân sinh ra Bắc dạy học lấy vợ lẽ là người Bắc Ninh, sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình Hồ Xuân Hương từng sống ở phường Khán Xuân, gần Hồ Tây của Hà Nội.

            – Bản thân: Bà là người thông minh, ham thích học hỏi, giỏi thơ ca, thích đi nhiều nơi và giao lưu kết bạn với nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Du.

            – Sự nghiệp: Hồ Xuân Hương để lại nhiều tác phẩm thơ gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm. Bà để lại khoảng 50 bài thơ Nôm và được mệnh danh là Bà Chúa thơ Nôm. Thơ bà đều lấy đề tài trong cuộc sống đời thường, cuộc sống và ngôn ngữ trần tục được đưa vào thể thơ Đường luật đài các một cách điêu luyện, tài tình. Có thể nói Hồ Xuân Hương có công lớn trong việc Việt hoá một thể thơ ngoại lai.

            – Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện phong cách độc đáo, đa diện – một trường hợp hiếm thấy trong văn học Trung đại (mang tính phi ngã). Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương có cái bình dị, mộc mạc, dễ hiểu của lối nói ca dao, tục ngữ dân gian. Bút pháp tả thực chứ không ước lệ tượng trưng. Thi liệu có nhiều bước đột phá khi đưa vào những hình ảnh đời thường thậm chí trần tục, thô nháp: quả mít, con ốc nhồi, cái quạt, bánh trôi nước…

            – Thơ Hồ Xuân Hương còn là tiếng nói bênh vực quyền sống của người phụ nữ, tố cáo xã hội phong kiến thối nát, tố cáo xã hội nam quyền trói buộc người phụ nữ. Đó cũng là tiếng nói tự bộc lộ của chính Hồ Xuân Hương – người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp nhưng có số phận éo le, tình duyên trắc trở.

2/ Tác phẩm

            “Bánh trôi nước” là một trong số những bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách và tư tưởng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương.

            – Đây là bài thơ vịnh vật nhiều ý nghĩa.

            – Bánh trôi nước: gọi tắt là bánh trôi, một thứ bánh làm từ bột nếp, được nhào nặn và viên tròn, có nhân đường phên, được luộc chín bằng cách cho vào nồi nước đun sôi. Ở miền Bắc nước ta, hàng năm vào ngày 3  – 3 âm lịch, có tục lệ cúng bánh trôi.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

1/ Về nội dung

            – Đây là bài thơ vịnh vật với nhiều nét miêu tả chân thực. Nữ sĩ đã viết về món ăn dân tộc với lòng yêu mến và trân trọng bản sắc văn hoá Việt.

            – Đây cũng là một bài thơ tự tình đa nghĩa. Bài thơ mượn hình ảnh chiếc bánh trôi trong thực tế để nói về vẻ đẹp, phẩm chất trong sáng, sắt son của người phụ nữ Việt Nam xưa.

            – Bài thơ cũng là ẩn dụ về số phận bất hạnh, chìm nổi của người phụ nữ. Xuân Hương qua đó thể hiện niềm khát khao hạnh phúc, công bằng cho những người phụ nữ.

            – Miêu tả bánh trôi chỉ là cái cớ để tác giả biểu lộ cảm xúc suy nghĩ về cuộc đời thân phận người phụ nữ, đó là điều quyết định làm nên giá trị bài thơ.

2/ Về nghệ thuật

            – Là một trong số những bài thơ vịnh vật hay nhất của Hồ Xuân Hương với tính đa nghĩa. Tác giả đã lựa chọn một hình ảnh sự vật trong đời sống và xây dựng thành một hình tượng thẩm mĩ như ẩn dụ về thân phận người phụ nữ.

            – Nữ thi sĩ đã vận dụng tài tình ca dao, tục ngữ. Đưa ngôn ngữ bình dị của cuộc sống vào thơ rất cụ thể và sinh động.

Nghệ thuật tương phản và cách sử dụng tiểu đối, cách gieo vần độc đáo đã làm cho lời thơ nhẹ nhàng, tự nhiên.

III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1/ Thể thơ

            – Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (Đường luật) mỗi bài gồm có 4 câu thơ, mỗi câu gồm 7 chữ, ngắt nhịp theo nhịp 4/3 đó là cách ngắt nhịp của thơ ca truyền thống.

            – Vần được gieo ở cuối câu 1, câu 2 và câu 4: các từ tròn, non, son – đây là cách gieo vần độc vận, rất đặc trưng cho phong cách thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

2/ Phân tích cụ thể

            – Bài thơ mang tính đa nghĩa. Lớp nghĩa thực, tác giả miêu tả chiếc bánh trôi nước một cách hoàn chỉnh, từ hình dáng, chất liệu cho đến cả cách chế biến. Các chi tiết được lựa chọn rất chân thực chứng tỏ khả năng quan sát, mô tả của người viết.

            Vừa trắng lại vừa tròn: Miêu tả hình dáng chiếc bánh.

            Bảy nổi ba chìm: Miêu tả trạng thái chiếc bánh khi luộc.

            Rắn nát: Trạng thái, tính chất của bánh tuy thuộc vào sự khéo léo của người nặn.

            Lòng son: Miêu tả nhân đường bên trong chiếc bánh

            – Tuy nhiên, miêu tả cái bánh trôi chỉ là cái cớ để tác giả gửi đến lời tự thuật về người phụ nữ.

            – Cụm từ “thân em” mở đầu bài thơ giống như cách gợi hứng, tỏ lòng, tự tình trong các bài ca dao than thân quen thuộc: Thân em như hạt mưa sa/ Thân em như củ ấu gai… Nhân vật trữ tình ở đây là một người con gái.

            – Câu thơ “Thân em vừa…” vừa gợi tả một chiếc bánh xinh xắn, ngon lành vừa hàm ẩn vẻ đẹp hình thể và vẻ duyên dáng, đằm thắm, đầy đặn của người phụ nữ. Cách nói ở đây thể hiện sự tự ý thức đầy tự hào của người phụ nữ về vẻ đẹp của mình.

            – Nhưng đồng thời bài thơ cũng là tiếng nói tự thuật về số phận bất hạnh của người phụ nữ: sống trong xã hội phong kiến cuộc đời của họ chịu nhiều chìm nổi bấp bênh, không thể tự quyết định số phận của mình mà phải lệ thuộc vào người khác. Nghệ thuật tương phản (rắn/ nát) và cách dùng tiểu đối, thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được sử dụng một cách khéo léo.

            – Trên tất cả, Hồ Xuân Hương khẳng định vẻ đẹp về phẩm chất của người phụ nữ: Dù gặp phải cảnh ngộ trớ trêu thì vẫn giữ được sự son sắt thuỷ chung tình nghĩa, dù ai có sắp đặt “nặn” thì tấm lòng son vẫn không đổi thay. Cấu trúc “mặc dù”, “mà”, “vẫn” nhằm khẳng định một tâm thế sống kiên trinh, bền vững. Tấm lòng son tượng trưng cho phẩm chất sắt son thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

            – Dùng cách nói dân gian, Hồ Xuân Hương đã biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Tác phẩm có giá trị nhân bản sâu sắc.

            – Bài thơ có hai lớp nghĩa, nghĩa nào cũng chính xác, nhưng nghĩa quyết định giá trị của bài thơ là nghĩa thứ hai (nghĩa bóng).

IV/ TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO

HỒ XUÂN HƯƠNG – BÀ CHÚA THƠ NÔM

(cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX)

            Ở cái thời mà “giang sơn” của người đàn bà chỉ quẩn quanh nơi buồng the, bếp núc thì Hồ Xuân Hương lại muốn là con người của trời đất bốn phương; gót lãng du thường lui tới đề thơ ở biết bao thắng cảnh trên miền Bắc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là một “tiếng sấm” giữa bầu trời chế độ phong kiến, phản chiếu những mặt trái của cuộc đời, bênh vực mọi tầng lớp cùng khổ, nhất là thân phận người phụ nữ. Chính vì lẽ đó, Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm” trong lịch sử văn học Việt Nam cùng với bao tích truyện huyền thoại.

(UNESCO – Những người phụ nữ huyền thoại)

HỒ XUÂN HƯƠNG, KÌ NỮ, KÌ TÀI

            Như một hiện tượng văn học đặc biệt, Xuân Hương được tôn vinh là một bậc kì nữ, kì tài. Nàng là một kì nữ vì con người nàng độc đáo khác đời. Xuân Hương là một bậc kì tài vì nàng trí tuệ hơn người, là “Bà Chúa thơ Nôm” với lối viết lạ lùng đến kinh ngạc.

            Thời Xuân Hương là thời những người đàn bà suốt đời nhất nhất chỉ biết ép mình theo khuôn khổ “tam tòng tứ đức”, lặng lẽ ngậm bồ hòn làm ngọt, sống tan loãng vào gia đình, lấy hạnh phúc của người khác làm niềm vui lẽ sống, lấy sự hi sinh cho chồng con làm hạnh phúc của chính mình… Xuân Hương là một người đàn bà đa đoan lệch chuẩn, nàng không xuất hiện như một cái bóng mờ bên chồng trong gia đình mà là một cá nhân độc lập ngoài xã hội. Ở người đàn bà “lỗi mùa sinh” ấy, trời cho cái gì lại lấy đi cái đó. Nàng thông minh, mẫn tiệp, yêu đời, khát khao hạnh phúc thì suốt đời mệnh bạc. Nàng ôm đàn mà vắng cả năm cung. Người có khả năng tuyệt vời làm mẹ, làm vợ nhưng không chồng, không con, không nơi nương tựa, đơn côi giữa cõi trần. Căn nhà tăm tối, lạnh lẽo, không ánh sáng, không lửa ấm là hình ảnh cuộc đời nàng. Đó là bi kịch lớn nhất của kiếp đàn bà, bởi đối với họ hạnh phúc tình yêu, tổ ấm gia đình vô cùng thiêng liêng và quan trọng. Thuyền mạnh vì lái, gái mạnh vì chồng. Như rồng không vây, Xuân Hương càng tài hoa càng mệnh bạc. Đã hai lần nàng nhắm mắt, vin vào chút phận “sắn bìm ”, nhưng cả hai lần “cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, gần như suốt đời nàng độc thân với những bi kịch của kiếp hoa dại bị dập vùi.

            … Thơ Xuân Hương là tiếng hát trái tim của Xuân Hương. Đó là những vần thơ của người phụ nữ viết cho người phụ nữ. Văn chương nàng in rõ sắc màu giới tính, bởi đàn bà luôn nhìn đời bằng con mắt riêng. Xuân Hương không chỉ cảm nhận cuộc đời bằng cái nhìn giới tính mà còn cảm nhận bằng cái nhìn đầy cá tính.

            … Góc tiếp cận thực tại mới mẻ này đã giúp Xuân Hương phát hiện và lí giải hiện thực một cách hết sức độc đáo. Ở nàng đã xuất hiện một quan niệm mới lạ về con người. Con người xuất hiện mang màu sắc cá nhân, con người với những đặc điểm về giới tính, với hạnh phúc trần tục, với tình yêu và khát vọng tự nhiên. Dưới con mắt của kẻ khát sống thèm yêu, vạn vật dường như ở trạng thái gợi tình, nhún nhảy, mời gọi. Nàng đã phả vào cái thế giới đông cứng, già nua một sức sống mới. Tất cả như được lạ hoá, trở nên cựa quậy, sống động, rõ ràng, trẻ trung, tinh nghịch, đáng yêu. Toàn bộ sáng tác của Xuân Hương được soi chiếu qua cái nhìn độc đáo: của giới tính, của cá tính sáng tạo và của thể loại phóng sự này.

            … Xuân Hương là sự thống nhất giữa một trái tim nhân hậu, đa cảm và bộ óc mẫn tiệp, thông tuệ, bởi nhiều yêu thương nên lắm âu lo. Và hai nửa ấy cứ đan xen, hoà quyện tạo nên một Xuân Hương kì nữ, kì tài. Đó là sự gặp gỡ giữa hai dòng dân gian và bác học để rồi thăng hoa thành một Xuân Hương dung dị mà kiêu sa, hồn nhiên, nồng nàn mà sâu lắng. Sự kết hôn giữa hai nền văn hoá đã sinh ra một Xuân Hương, nhưng gien trội ở nàng thuộc về văn hoá mẹ và đó là cái duyên làm cho nàng trở nên tràn trề sức sống.

            … Là người trong cuộc, Xuân Hương dũng cảm bênh vực cho quyền lợi của những người phụ nữ. Nàng công khai giải quyết những vấn đề của phụ nữ, công khai đề cập quyền lợi và hạnh phúc ái ân, xem đó là một hiện tượng tự nhiên bình thường, tất yếu, là quy luật sinh tồn và phát triển của xã hội, và bởi vậy Xuân Hương căm ghét và lên án tất cả những thế lực kìm hãm nó. Điều đó làm cho nàng hình như đi trước thời đại, cũng là lí do mà độc giả phương Tây cảm thấy Xuân Hương trở nên thân thiết, gần gũi với họ. Còn giai cấp phong kiến, trái lại thì thấy “thi trung hữu quỷ” và coi nàng như một kẻ nổi loạn. Những ý tưởng mới lạ, táo bạo, bất ngờ của nàng như một cơn gió mát lành, thấm đẫm tinh thần nhân văn dân chủ, song cũng là ngọn roi sắt quất thẳng vào chế độ phong kiến tàn bạo, góp phần làm rung chuyển tôn ti trật tự của nền chuyên chế thối nát ấy.

            Trên cả hai phương diện lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học, Xuân Hương đã có những đóng góp rất quan trọng và loại biệt mà trước đó và đương thời không ai làm được. Vì trở thành một nghệ sĩ đầy cá tính với bút pháp độc đáo, một bậc kì nữ, kì tài.

(Theo Trần Thị Trâm)

THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

            Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh bà thành Bà Chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, chín mõm mòm,… Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn.

            Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập “Thơ Hồ Xuân Hương” do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1987, chúng tôi đã phát hiện được 15 trường hợp có xuất hiện các yếu tố của thành ngữ, tục ngữ trong những câu thơ. Đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như thế nào. Quả là hiếm có một nhà thơ nào lại quan tâm đặc biệt đến vai trò của ngôn ngữ dân gian như Hồ Xuân Hương.

            Việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trác phẩm đã được nhà thơ xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. Có những tác phẩm tuy rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã hai lần sử dụng đến yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài “Mời trầu” có hai câu thành ngữ “xanh như lá” và “bạc như vôi” được áp dụng trong câu thơ “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Bài “Khóc Tổng Cóc” lại có hai câu thành ngữ khác là “nòng nọc đứt đuôi” và “gọt gáy bôi vôi” được áp dụng trong hai câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé/ Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”. Hoặc như ở bài “Quan thị” thì hai câu thơ “Đố ai biết đó vông hay trốc/ Còn kẻ nào hay cuống với đầu” lại chính là hai hình ảnh ví von được rút ra từ hai câu tục ngữ “ngồi lá vông, chổng mông lá trốc” và “đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên”. Thậm chí có bài như bài “Làm lẽ” chỉ với tám câu thơ ngắn nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã góp phần vào trong ấy, đó là “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” lấy từ ý của câu thành ngữ “năm thì mười hoạ”, “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” lấy từ ý của câu thành ngữ “cố đấm ăn xôi”; và câu “Cầm bằng làm mướn, mướn không công” lấy từ ý của thành ngữ “làm mướn không công”. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: “Tài tử văn nhân ai đó tá?” (Tự tình I) lấy ý của thành ngữ “tài tử giai nhân”; “Ấy ai thăm ván cam lòng vậy” (Tự tình III) lấy ý thành ngữ “thăm ván bán thuyền”; “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước) ý của thành ngữ “ba chìm bảy nổi” (bảy nổi ba chìm); “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội) ý của thành ngữ “mỏi gối chồn chân”; “Bán lợi mua danh nào những kẻ” (Chơi chợ chùa Thầy) ý của thành ngữ “bán lợi mua danh” (mua danh bán lợi). Và “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi” (Con ốc nhồi) từ ý của thành ngữ “lăn lóc như cóc bôi vôi”. Qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Xuân Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua hai phương thức chính như sau:

            Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi – “Mời trầu”); nòng nọc đứt đuôi (Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé – “Khóc Tổng Cóc”); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ – “Làm lẽ”); cố đấm ăn xôi (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm – “Làm lẽ”); bảy nổi ba chìm (Bảy nổi ba chìm với nước non – “Bánh trôi nước”); mỏi gối chồn chân (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo – “Đèo Ba Dội”); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ – “Chơi chợ chùa Thầy”). Cách xử lí này phải nói là tương đối khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng để xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu và trong bài hay không. Đồng thời, tác giả cũng phải là người hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khối từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về vần điệu. Những khó khăn nói trên đã được Hồ Xuân Hương xử lí một cách tuyệt vời. Chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của bà trong vấn đề này. Ví dụ trong bài “Làm lẽ”, để miêu tả thân phận hẩm hiu, thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tác giả đã sử dụng hai câu thành ngữ năm thì mười hoạ và cố đấm ăn xôi trong hai câu thơ “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” và “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”. Đối với tiềm thức văn hoá của người Việt thì hai câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của một điều gì đó. Vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng Xuân Hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.

            Phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chử không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhất. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (Ấy ai thăm ván cam lòng vậy – “Tự tình III”); gọt gáy bôi vôi (Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi – “Khóc Tổng Cóc”); làm mướn không công (Cầm bằng làm mướn, mướn không công – “Làm lẽ”); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc (Đố ai biết đó vông hay trốc – “Quan thị”); đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên (Còn kẻ nào hay cuống với đầu – “Quan thị”); lăn lóc như cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi – “Con ốc nhồi”). Cách xử lí này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo cho câu thơ và đôi lúc khiến cho câu thơ như có hơi hướng của những câu đố, ví dụ như trường hợp của “Đố ai biết đó vông hay trốc” (Quan thị) hay như “Còn kẻ nào hay cuống với đầu” (Quan thị). Những câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. Do đó, muốn phát hiện ra trong câu thơ ấy tác giả có sử dụng các mô típ của thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt nội dung hay không thì người đọc phải có một vốn thành ngữ, tục ngữ nhất định để làm cơ sở quy chiếu so sánh thì mới nhận ra được.

            Qua một số ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị rất lớn không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. Những câu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hồ Xuân Hương dường như trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố định quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và đặc biệt hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cộng đồng, cũng như tính khái quát rất cao. Cho nên, khi xuất hiện trong thơ chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, hay ngôn ngữ phổ thông mà hiện nay chúng ta đang phải học, phải tiếp xúc hằng ngày. Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. Và đặc biệt là thấy được cái biệt tài của Bà Chúa thơ Nôm trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. Nói tóm lại, bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng đều cần phải được tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thể làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thôi.

(Theo Đặng Thanh Hoà

Đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 4 – 2001)

___

Xem thêm:

Hướng dẫn phân tích, cảm thụ văn bản Sau phút chia li – Đặng Trần Côn tại đây.

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận