Bài ca Côn Sơn – Nguyễn Trãi – Để học tốt Ngữ Văn 7

Đang tải...

Bài ca Côn Sơn

Nguyễn Trãi

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1/ Tác giả

            – Nguyễn Trãi, hiệu ức Trai (1380 – 1442) là nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông cũng là một nhà thơ lỗi lạc, một người toàn đức toàn tài, ông là danh nhân văn hoá thế giới do UNESCO công nhận.

            – Quê quán: Quê gốc ở Hải Dương nhưng sinh sống ở xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, lộ Đông Đô nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội.

            – Gia đình: Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, con gái quan tư đổ Trần Nguyên Đán. Phụ thân của ông đỗ tiến sĩ năm 1374 dưới triều Trần nhưng lại làm quan cho nhà Hồ.

            – Cuộc đời: Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cũng ra làm quan. Khi giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi đã tham gia phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Với cương vị Tuyên phụng Đại phu Hàn Lâm thừa chi của nghĩa quân, ông đã giúp Lê Lợi lãnh đạo nhân dân làm nên chiến thắng lừng lẫy năm 1428. Nhưng chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, triều đình nhà Lê rơi vào khủng hoảng mâu thuẫn. Các khai quốc công thần người bị giết hại, người bị bãi miễn. Bản thân Nguyễn Trãi cũng gặp phải những oan khiên thảm khốc nhất trong xã hội phong kiến Việt Nam, bị vu oan sát hại vua và bị tru di tam tộc trong vụ án oan khiên Lệ Chi Viên, mãi sau này (20 năm sau – năm 1464) ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.

            – Sự nghiệp: Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương phong phú và đồ sộ gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm trong đó có Bình Ngô đại cáo, ức Trai thi tập, Quốc Âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Thơ văn Nguyễn Trãi trước hết là lòng yêu nước, thương dân kết hợp với lòng yêu đời nhất quán.

2/ Tác phẩm

            – Côn Sơn: Là một ngọn núi ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

            “Côn Sơn ca” là bài thơ Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán được rút từ “Ức Trai thi tập”. Trong thời gian cáo quan về ở ẩn ở Côn Sơn (một dãy núi ở Hải Dương) ông đã viết bài thơ này.

            – Bài gồm 36 câu thơ chữ Hán được dịch thành 26 câu thơ lục bát, đoạn trích trong bài là 8 câu lục bát nói về vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của thiên nhiên nơi Côn Sơn, qua đây thể hiện sự giao hoà trọn vẹn, niềm yêu thích say mê của nhà thơ với cảnh vật nơi đây.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

1/ Về nội dung

            – “Côn Sơn ca” là bức tranh phong cảnh hữu tình của thiên nhiên cảnh vật nơi dãy núi Côn Sơn được lọc qua cảm nhận tinh tế của thi sĩ Nguyễn Trãi. Đoạn thơ giống như bức tranh tứ bình thể hiện vẻ đẹp hài hoà của thiên nhiên: suối, đá, tùng, trúc.

            – Miêu tả thiên nhiên, nhà thơ không chú ý đến núi non hùng vĩ hay một cảnh đẹp lạ thường nào mà đơn giản chỉ là những gì hết sức gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thanh đạm, thanh cao, thanh bình của một ẩn sĩ.

            – Tất cả cảnh vật đều được nhà thơ liên tưởng đến những hình ảnh hết sức thi vị: đá có thảm rêu êm như chiếu, suối chảy rì rầm như tiếng đàn cầm gảy bên tai, thông trúc tượng trưng cho dáng người quân tử…

            – Cảnh Côn Sơn vì thế rất nên thơ, hữu tình. Người biết tìm đến cảnh ấy, biết nhìn ra vẻ đẹp ấy cũng phải là người có tâm hồn thơ, có nhân cách thanh cao và hoà hợp tuyệt vời với thiên nhiên, vũ trụ.

            “Côn Sơn ca” là bài ca giao cảm với thiên nhiên cũng là bài ca tâm trạng thế sự, triết lí về cuộc đời, nhân sinh. Nhạc của bài thơ là nhạc của tâm hồn, một tâm hồn thanh cao, trong sạch.

2/ Về nghệ thuật

            – Đoạn thơ có cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, có sự hài hoà cao độ giữa màu sắc, âm thanh, hình khối. Ngòi bút đặc tả của Nguyễn Trãi nắm bắt và kết hợp được chất nhạc, chất hoạ, chất thơ trong một “Côn Sơn ca” giàu cảm xúc.

            – Nhịp thơ như nhịp của phách, nhịp của bộ gõ, vừa đệm nhạc vừa tạo tiết tấu cho lời ca. Cách gieo vần độc đáo, sinh động và có sự luân chuyển liên tục “uyên”, “ich”, “ung”, “uc” đã tạo ra những giai điệu rộn ràng như nhịp điệu của thiên nhiên, mô tả chuyển động của nước, của đá…

            – Chính chất hào sảng trong tâm hồn đã tạo nên chất hào sảng của thơ “Côn Sơn ca” vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai bài ca này hoà quyện thống nhất trong cảm xúc của thi nhân.

            – Trong văn bản, tác giả sử dụng rộng rãi và đạt hiệu quả thẩm mĩ cao các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ…

            – Văn bản chuyển dịch bằng thơ lục bát cũng mô tả được âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha.

III. HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1/ Thể thơ

            – Bài thơ viết theo thể “ca khúc” cổ điển gồm 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất bốn chữ, câu dài nhất 10 chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Bản dịch đã chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát, một thể thơ dân tộc.

            – Đặc điểm của thơ lục bát là gồm những cặp câu sáu (lục) tám (bát) liên kết với nhau cho đến hết bài thơ. Tiếng cuối của câu sáu vần với tiếng thứ sáu của câu tám. Tiếng cuối của câu tám lại vần với tiếng cuối của câu sáu tiếp theo. Cứ như vậy cho đến hết bài.

            – Sức mạnh của thơ lục bát nằm ở giai điệu trầm bổng, du dương, giàu nhạc tính phù hợp với mô tả âm thanh và biểu hiện tâm trạng.

            – Bản dịch tuy có khác nhau về thể thơ nhưng tác giả đã dịch rất sát với văn bản chữ Hán của Nguyễn Trãi. Chính vì thế, chúng ta có thể thấy nghệ thuật điệp từ trong văn bản cũng gần thống nhất với văn bản tiếng Hán.

2/ Phân tích cụ thể

Đoạn thơ có cấu trúc tứ bình, cứ ba câu thơ nói lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Với những nét bút đặc tả, cảnh rừng Côn Sơn hiện lên mang đặc điểm riêng không lẫn với bất cứ bức tranh sơn thuỷ hữu tình nào.

a/ Cảnh đẹp thứ nhất

            Cảnh đẹp thứ nhất là suối:

Côn Sơn hữu tuyền

Kì thanh linh linh nhiên.

(Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai).

            Câu thơ như có tiếng nhạc, âm thanh của tiếng suối như một bản tình ca du dương, rì rầm lúc khoan lúc nhặt, là tiếng đàn của tự nhiên chứ không phải do người đánh. Ẩn dụ đàn cầm biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh hồn của ta.

b/ Cảnh đẹp thứ hai

            – Là đá Côn Sơn:

Côn Sơn hữu thạch

Vũ tẩy đài phô bích…

(Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm).

            – Câu thơ có màu sắc tươi tắn, trong trẻo đặc tả phiến đá thạch bàn qua mưa được mưa xối phẳng lì, rêu phô xanh biếc như phủ chiếu êm. Ẩn dụ ngồi “chiếu” (đạm tịch) thể hiện một tâm thế nhàn của con người hoà nhập với thiên nhiên.

c/ Cảnh đẹp thứ ba

Thông trong núi dày đặc, rủ bóng mát, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên an lành để nhà thơ “tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm”. Hình ảnh cây thông trở nên gần gũi hơn, thơ mộng hơn khi được tác giả hình dung như muôn chiếc lọng xanh rủ bóng. Ẩn dụ này tạo nên một hình tượng mĩ lệ, gợi cảm. Thông hiện lên không còn là vật vô tri mà cũng biến thành tri kỉ của nhà thơ.

d/ Cảnh đẹp thứ tư

            – Là trúc Côn Sơn điệp trùng ngàn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, “ta ngâm thơ nhàn”. Màu xanh của trúc đã toả mát tâm hồn ức Trai, trúc quân tử đã trở thành tri âm, san sẻ cảm thông niềm vui, nỗi buồn của “ta” trong những ngày tháng về Côn Sơn ở ẩn.

            – Trong toàn đoạn thơ, tác giả sử dụng rất nhiều những hình ảnh so sánh, vĩ von độc đáo. Sự lặp lại của các tín hiệu ngôn ngữ như “Côn Sơn hữu” (Côn Sơn có), “ngô dĩ” (ta lấy, ta làm)… làm cho nhạc điệu bài thơ trở nên du dương trầm bổng, bộc lộ niềm vui thích, say mê của tác giả. Tiếng suối được ví với tiếng đàn, đá rêu phơi được ví với chiếu, thông được ví như muôn chiếc lọng xanh rủ bóng… Cách ví von cho thấy tác giả là người rất yêu thiên nhiên, coi thiên nhiên như người bạn, đồng thời cũng cho thấy đây là một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, giàu tưởng tượng, tự do, phóng khoáng.

            – Bút pháp đặc tả với những hình ảnh gợi liên tưởng thú vị, thiên nhiên được lọc qua con mắt khoáng đạt, tự do, giàu tình cảm, lạc quan của thi nhân trở nên hết sức gần gũi mà cũng hết sức nên thơ. Suối, đá, thông, trúc – những cảnh vật hết sức bình thường của vùng núi Côn Sơn đã trở thành nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hổn ức Trai, là đối tượng để thi nhân giao hoà, giao cảm. Hình tượng trung tâm là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, thiên nhiên, sự sống. Đó không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn là tâm hồn của thi sĩ yêu thiên nhiên tha thiết và hết sức thư nhàn.

            – Đoạn thơ có nhiều điệp từ “” (“ngô”) (5 lần), “” (hữu) (4 lần) “Côn Sơn” (2 lần). Điệp từ làm nổi bật nhân vật ta giữa thiên nhiên, mặt khác nhấn mạnh vẻ đẹp sẵn có của Côn Sơn, thể hiện sự so sánh để tìm ra nét độc đáo của sự vật. Điệp từ “ta” còn có tác dụng tạo cho câu thơ giọng điệu êm ái, du dương, khi đứng đầu, khi đứng giữa câu thơ, khi đối nhau qua một từ trong câu thơ tạo nên sự uyển chuyển, nhịp nhàng.

            – Bức tranh Côn Sơn hiện lên với vẻ đẹp sống động, đầy ắp âm thanh và màu sắc, là bức tranh giàu chất nhạc, chất thơ, chất hoạ. Giọng thơ phóng khoáng, nhịp thơ thoải mái như bước chân lên xuống, khi chạy, khi dừng, câu thơ tự do… qua đó bộc lộ tâm hồn thi nhân thanh bạch, giản dị, ung dung mà hào phóng, cởi mở.

            – “Côn Sơn ca” cho ta hiểu thêm một khía cạnh khác trong con người của anh hùng Nguyễn Trãi, con người dám sống thật với bản thân mình.

IV/ TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO

            Học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ “Côn Sơn ca” vào số 87 “Ức trai thi tập” (Sách Nguyễn Trãi toàn tập – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1976). Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể ca gồm 36 câu, câu ngắn nhất 4 chữ, câu dài nhất 10 chữ, phần lớn là ngũ ngôn và thất ngôn. Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, 26 câu, theo chỗ chúng tôi biết, trong các bản dịch “Côn Sơn ca” thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ông có nhiều bài thơ Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: “Kỷ thác mộng hồn tầm cố lí” (Về Côn Sơn làm trong thuyền). Làng quê mới qua, như thấy chiêm bao đến: “Hương lí tài qua như mộng đáo” (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác).

“Quê cũ nhà ta thiếu của nào?

Rau trong nội, cá trong ao.

(…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ.

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?”

(Mạn thuật- 13)

            “Côn Sơn ca” là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.

            1/ Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:

“Côn Sơn hữu tuyền,

Kỳ thanh linh linh nhiên

Ngô dĩ vi cầm huyền

Côn Sơn hữu thạch

Vũ tẩy đài phô bích

Ngô dĩ vi đạm tịch… ”

            Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hoà giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:

“Trong ghềnh thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.

            Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê, nhớ luống cúc vườn cũ:

“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,

Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao”.

(Ngày thu ngẫu nhiên làm- Thơ dịch)

            Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:

“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng

Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm ?”

(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?

Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)

            2/ Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:

“Về đi sao chẳng sớm toan

Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”

            Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ “Bất quy khứ lai” lấy cảm hứng từ bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ương cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: “Dưới công danh đeo khổ nhục” (Ngôn chí – 2), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (Mạn thuật – 5). Người anh hùng thuở “bình Ngô” đã từng “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” thế mà giờ đây tự trách mình “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”. Điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo – hai đại công thần, còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần “thanh chức”. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền:

“Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,

Ắt đã trong bằng nước ở bầu”.

            Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: “Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tông lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: “Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng”, ông tự cho mình là con ngựa già “còn ham rong ruổi”, là cây thông qua năm rét mà “còn dạn tuyết sương”. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong “Côn Sơn ca”:

“Về đi sao chẳng sớm toan,

Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”

            “Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…” (Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở “bình Ngô”.

            Côn Sơn ca” còn hàm chứa triết lí về cuộc đời của ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quý đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:

“Muôn chung chín vạc làm gì,

Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.

Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,

Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan”.

            Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung quy chỉ là “đều làm cho thoả được như ý mình”.

            Kiếp người khác nào “cây cỏ”, đời người một trăm năm, mừng, buồn, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mây núi, trăng ngàn:

“Láng giềng một áng mây bạc,

Khách khứa hai ngàn núi xanh”.

            Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” (Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:

“Núi gò đài các đó đây

Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh”.

            Nguyễn Trãi viết “Côn Sơn ca” trước bao lâu vụ án Lệ Chi Viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, toả rộng trong tâm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tư đồ Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên ức Trai mới có suy ngẫm ấy. Về một phương diện khác, triết lí về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử “Anh hùng di hận kỉ thiên niên” (Quan hải).

            3/ Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:

“Sào, Do bằng có tái sinh,

Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”.

            Sào Phủ và Hứa Do hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kì Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hoà với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai người hiền xa xưa, mặt khác biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hoà với suối rừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của “khúc hát bên ghềnh Côn Sơn” vậy.

            Nếu văn (Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo...) là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ (Quốc âm thi tập, ức Trai thi tập) là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. “Côn Sơn ca” là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của ức Trai. Triết lí về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai của bài ca thật ra không có gì mới. “Thân cát bụi lại trở về cát bụi” (Kinh Thánh); “Sinh tồn hoa ốc xứLinh lạc quy sơn khưu” (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán); “Xử thế nhược đại mộng – Hồ vị lao kì sinh?” (Sống ở đời như giấc mộng lớn – Tội chi vất vả đời mình – Lí Bạch)… có điều, qua “Côn sơn ca”, ta thấy hồn thơ của Ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kịch, thương đời người cát bụi. Chất triết lí trong “Côn Sơn ca” giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta.

(Theo nguyentrai.net)

___

Xem thêm:

Hướng dẫn phân tích, cảm thụ văn bản Sông núi nước Nam tại đây.

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận