Xa ngắm thác núi Lư – Lí Bạch – Để học tốt Ngữ Văn 7

Đang tải...

XA NGẮM THÁC NÚI LƯ

(VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ)

– LÍ BẠCH –

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1/ Tác giả

            – Lí Bạch (701 – 762) là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc. Bản thân ông đi nhiều nơi, có dịp chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp, ông đã khắc hoạ thành công những hình tượng kì vĩ, hào hùng của thiên nhiên con người trên đất nước Trung Hoa.

            – Thơ Lí Bạch biểu hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng, yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu tự do, yêu đất nước, coi thường danh lợi, quý trọng tình bạn đẹp, coi trọng nghĩa khí, thích sống ngay thẳng cương trực. Lí Bạch là một hồn thơ lãng mạn, cuồng phóng, ông được nhiều người mến mộ gọi là Thi tiên – ông tiên trong làng thơ.

            – Ngôn ngữ thơ Lí Bạch tự nhiên mà điêu luyện, một phong cách lãng mạn bay bổng, tràn đầy cảm xúc, hình ảnh trong thơ rất tươi sáng kì vĩ, hào hùng.

2/ Tác phẩm

            – Lí Bạch viết nhiều bài rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. “Xa ngắm thác núi Lư” là một trong những bài tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của nhà thơ. Lư sơn (núi Lư) là tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

1/ Về nội dung

            – Ở “Xa ngắm thác núi Lư” tác giả tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ khi nhìn từ xa chiêm ngưỡng và quan sát, bức tranh sống động có đầy đủ màu sắc: màu trắng của thác, màu xanh của núi, màu vàng của nắng, màu tía cửa sương khói…

            – Bài thơ được viết bằng sự thăng hoa của hồn thơ lãng mạn, cuồng phóng của Lí Bạch trước khung cảnh thiên nhiên kì vĩ, là minh chứng cho câu nói Thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi. vẻ đẹp của thiên nhiên vừa thực vừa huyền ảo.

            – Bài thơ hé mở tính cách tự do phóng khoáng, tâm hồn luôn sống chan hoà với thiên nhiên của nhà thơ. Thiên nhiên là cảm hứng để Lí Bạch viết nên những vần thơ tuyệt bút qua đó thấy rõ tình yêu lớn của Lí Bạch đối với thiên nhiên và đất nước.

2/ Về nghệ thuật

            – Bài thơ được viết nên từ trí tưởng tượng hiếm với bút pháp lãng mạn phóng khoáng, dạt dào, với những nét vẽ thậm xưng tráng lệ.

            – Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo với những liên tưởng mãnh liệt, được mở ra mọi giới hạn của chiều kích không gian, câu thơ đầy màu sắc diễm lệ nhiều câu xứng danh là thần cú khi gợi lên những cảm xúc kì diệu trong lòng nhà thơ và bạn đọc khi chiêm ngưỡng một vẻ đẹp hiếm có trong trời đất qua thơ văn.

III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1/ Thể thơ

            Thất ngôn tứ tuyệt cổ điển.

2/ Nhan đề

            – Nhan đề trong thơ Đường bao giờ cũng có sức khái quát rất cao, có ý nghĩa thâu tóm nội dung và cảm hứng chủ đạo của toàn bài thơ.

Nhan đề của bài thơ khá dài. “Vọng Lư Sơn bộc bố” có ý nghĩa khái quát cả không gian miêu tả và điểm nhìn của nhà thơ. Không gian là thác nước ở núi Lư. Điểm nhìn là từ xa, từ trên cao trông xuống. “Vọng” là “trông từ xa”, “dao” là “xa” . Ở nhan đề và trong bài thơ xuất hiện hai từ này, có thể khẳng định rằng tác giả đứng ngắm thác nước từ xa. Từ vị trí này tuy khó miêu tả chi tiết từng cảnh vật nhưng lại có thể quan sát toàn cảnh để có được cái nhìn tổng thể. Cái đẹp của thác nước là cái đẹp được quan sát và miêu tả từ xa.

3/ Phân tích cụ thể (Bám sát bản nguyên tác và bản dịch nghĩa)

a/ Câu thứ nhất – Câu khai: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

            – Câu thơ thứ nhất chưa miêu tả thác nước mà chủ yếu tạo phông nền cho đối tượng miêu tả trung tâm: ở đây là ngọn núi Hương Lô

            + Núi Hương Lô trong dãy Lư Sơn, một địa danh thuộc tỉnh Giang Tây – Trung Quốc. Hương Lô nghĩa đen là lò hương, dáng núi như vậy nên mới được đặt tên là Hương Lô, núi cao có mây khói bao phủ, xa như chiếc lò hương khổng lồ, vào những ngày đẹp trời cảnh tượng càng kì vĩ, lộng lẫy.

            + Lí Bạch như một hoạ sĩ tài hoa, tinh tế đã nắm bắt được thần thái của khoảnh khắc diệu kì khi mặt trời chiếu vào Hương Lô, cảm giác như sinh ra làm khói tía, khung cảnh như sáng bừng. Thực ra, theo như tên gọi, sương khói trên đỉnh Hương Lô vẫn có từ trước nhưng trong tư duy thơ của Lí Bạch chính ánh mặt trời chiếu xuống đã làm nên vẻ đẹp của núi Hương Lô.

            – Nhà thơ hướng tầm mắt từ xa quan sát, nắng chiếu xuống núi và thác nước, một thác nước chảy từ cao xuống tạo thành “khói tía bay” mù mịt. Một vẻ đẹp kì thú đầy màu sắc màu trắng của thác nước, màu xanh của núi, màu vàng của nắng, màu tía của sương khói, một bức tranh vừa ảo vừa thực. Điều đặc biệt là trí tưởng tượng của Lí Bạch đã đem đến màu sắc kì lạ cho sương khói trên đỉnh Hương Lô. Trong thơ cổ không thiếu hình ảnh khói hư ảo nhưng đa phần là màu trắng hoặc không được miêu tả cụ thể: (Yên ba giang thượng sử nhân sầu; Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu; Yên ba thâm xứ đàm quân sự; Yên hoa bất kham tiễn…). Lí Bạch đã phác màu của khói thật sinh động và hư ảo: màu tía.

            Hình ảnh được miêu tả trong câu thứ nhất đã tạo nền cho việc miêu tả ở ba câu sau: từ sự bao quát đi đến tả những nét tiêu biểu nhất.

b/ Câu thứ hai – Câu thừa: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

            – Khắc hoạ một khung cảnh tráng lệ, kì vĩ hiếm có.

            – Nhà thơ có điểm nhìn của một hoạ sĩ đang phóng mắt từ xa (dao khan) đang tô điểm cho bức tranh được vẽ bằng thuốc nước tươi mát, con thác là nơi dòng sông chảy xiết, rất dữ dội ấy thế mà nhà thơ lấy động tả tĩnh, thác treo trên dòng sông, từ trên núi chảy xuống nhìn xa như một tấm vải bất động đang dọc buông rủ xuống: đó là một vuông lụa trắng khổng lồ mà thiên nhiên ban tặng cho con người.

            – Chữ “quải” không có trong bản dịch thơ nhưng lại là nhãn tự, làm nổi lên thần thái của câu thơ. Con sông vô tri bỗng biến thành một sinh thể hữu hổn. Chữ “quải” (treo) hợp với chữ “dao khan” làm nổi bật tâm thế của nhà thơ đang từ xa ngưỡng vọng khiến đòng thác bình thường trở nên tráng lệ và đầy chất thơ.

c/ Câu thứ ba – Câu chuyển: Phi lưu trực há tam thiên xích

            – Mạch thơ có sự chuyển biến bất ngờ: cái tráng lệ biến thành cái kì vĩ, say mê, cái tĩnh biến thành cái động, thậm chí là một động thái dữ dội và mãnh liệt, tâm thế của nhà thơ từ chỗ ngưỡng vọng biến thành ngỡ ngàng, choáng ngợp.

            – Động từ “phi lưu” đặt ở đầu câu nhấn mạnh động thái của dòng nước, “trực” (thẳng) là hướng chảy của dòng nước, há (hạ): rơi xuống, đổ xuống cũng là phương hướng nước chảy đồng thời gợi cả tốc độ chảy. Riêng ba chữ “tam thiên xích” là một nét vẽ phóng đại diễn tả quy mô khổng lồ, tốc độ ghê gớm của thác nước núi Lư. Các đối cực của cảm xúc và cảm nhận, sự chuyển hoá nhanh chóng của tứ thơ đã tạo nên nét thăng hoa của cảm hứng và bút pháp lãng mạn cuồng phóng chỉ có ở thơ Lí Bạch.

d/ Câu thứ tư – Câu kết: Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

            – Câu thứ tư cảnh vật là trạng thái huyền ảo: Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây gợi nên sự trầm trồ ngạc nhiên: đây không phải là dòng sông và thác nước của thiên nhiên trước mắt mà là dải Ngân Hà từ vũ trụ rời xuống.

            – Câu thơ sử dụng hình ảnh phóng đại, nhưng những hình ảnh này có cơ sở thực tế, con mắt thi sĩ có xúc cảm sâu sắc đã thuyết phục người đọc tin vào cảnh tượng này.

            – Với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã sáng tạo nên một hình ảnh ẩn dụ để so sánh thác nước núi Lư với “dải Ngân Hà”. Nhà thơ như đứng trước ranh giới của thực và ảo. Chữ “nghi thị” (ngỡ là, tưởng là) gợi lên tâm thế say mê đến choáng ngợp của Thi tiên trước thiên nhiên phi thường như ở cõi nào chứ không phải cõi thường: không phải dòng sông mà là dải Ngân Hà với hàng tỉ ngôi sao bỗng dùng từ chín tầng trời mà trút xuống.

            – Hai chữ “cửu thiên” hợp với ba chữ “tam thiên xích” đứng ở cuối câu thơ vừa lột tả tầm vóc phi thường của dòng sông lại vừa tạo nên một hình ảnh huyền ảo vượt mọi không gian và thời gian, một hình ảnh đầy chất thơ.

            – Có thể liên tưởng và kết nối không gian sông nước kì vĩ, tráng lệ như một “kiểu” không gian riêng của Lí Bạch. Chẳng hạn sông Hoàng Hà trong bài thơ “Tương tiến tửu”:

            – Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai;

            – Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

             (Bạn có thấy không: nước sông Hoàng Hà từ trên trời chảy xuống.

             Chảy ra đến biển không quay trở lại).

            “Vọng Lư sơn bộc bố” xứng đáng là một áng Đường thi tuyệt tác cổ điển.

IV/ TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO

Lí BẠCH (701 – 762)

             Lí Bạch, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ – tức Lũng Tây ngày xưa). Lí Bạch xuất thân trong một gia đình thượng nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, đến núi Nga Mi ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông, lại cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân ngự dụng” nên ông bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ. Đến Lạc Dương, Lí Bạch gặp Đỗ Phủ kết làm bạn “vong niên” (bìm “quên tuổi tác”, không coi trọng tuổi tác – Đỗ Phủ nhỏ hơn Lí Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng, ngắm hoa, săn bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc Nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ (An Huy) là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng rượu)… Khi ông mất, Lí Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì nhà thơ làm khoảng 20,000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1,800 bài.

             Thơ ông viết về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng… Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác. Đất nước Trung Hoa hiện lên tráng lệ dưới ngòi bút cửa ông. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy ra biển đông như một lực sĩ:

“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai

Bôn lưu đáo hải bất phục hôi ”

(Tương tiến tửu)

             Sông Dương Tử (tức Trường Giang) đi vào thơ ông như dải lụa thắt ngang trời:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu

Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. ”

(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)

             Thác Hương Lô được miêu tả như sông Ngân Hà tuột khỏi mây:

“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.

Phi lưu trực há tam thiên xích,

Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.”

(Vọng Lư sơn bộc bố)

             Tả cảnh thiên nhiên mà tráng lệ như thế, rõ ràng tác giả đã yêu quê hương, đất nước biết nhường nào. Lòng yếu nước ở Lí Bạch chính là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương vậy. Bài tứ tuyệt thể hiện nỗi lòng nhớ quê hương da diết của ông là bài “Tĩnh dạ tứ”, một bài thơ mà không người Trung Quốc tha phương cầu thực nào không thuộc lòng:

“Sàng tiền minh nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sơn.

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương. ”

             Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lí Bạch có lòng đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân – những người chăm bón, vun trồng cho vườn hoa đất nước. Nếu Đỗ Phủ do cuộc đời chìm ngập trong khói lửa loạn ly, do cảm hứng trách nhiệm của một nhà Nho mà chủ yếu nói đến số phận đẫm máu và nước mắt của nhân dân thì Lí Bạch do sống chủ yếu trong thời thịnh vượng của nhà Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái bay bổng diệu kì của một nhà thơ lãng mạn mà ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở thẩm kín của họ. Bất kể đối tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn cảm hứng mạnh cho nhà thơ. Bài “Thái liên khúc” (Khúc hát hái sen) miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như những nàng tiên giáng trần. Ba bài “Thanh bình điệu” tả vẻ đẹp của nàng Dương quý phi thật mê hồn. Nhưng điều cần nói là trong mắt Lí Bạch, Dương Quý Phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa của một cung phi mà chỉ là một người đẹp trong suốt và ẻo lả. Ta nhớ lời thơ của ông:

“Nước trong sẽ nở hoa sen

Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời”.

             Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái yếu. Ông hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ. Bài “Xuân tứ” nói đến nỗi tê tái của người vợ trẻ có chồng tiễn biệt nơi biên cương:

“Cỏ Yên vừa nhú tơ xanh

Dâu Tần đã rũ lá cành xum xuê

Khi chàng tưởng nhớ ngày về,

Chính là lúc thiếp tái tê cõi lòng

Gió xuân đâu biết cho cùng,

Cớ chi len lỏi vào trong màn là?”

             Cái cảm xúc “gió động màn” của người vợ trẻ phòng không gối chiếc ấy, chỉ có người trong cuộc mới có. Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc nhân vật trữ tình của mình. Cũng như vậy, “Tý dạ Ngô ca” nói đến nỗi niềm của người phụ nữ giặt áo bông khi gió heo may về để kịp gửi cho người chinh chiến phương xa. “Trường can hành” nói đến nỗi sầu bi của người thương phụ, chồng đi xa, lạivì đồng tiền lời mà coi khinh li biệt (Thương nhân trọng lợi khinh li biệt). Ngọc giai oán, Vương Chiêu Quân... lại bày tỏ nỗi lòng đồng cảm với cung nữ…

             Tóm lại chủ nghĩa nhân đạo ở mỗi nhà thơ lại có biểu hiện khác nhau. Ở Lí Bạch, một nhà thơ phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng của Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Nhưng trong xã hội xưa, cho dù vào thời kì thịnh vượng nhất của nhà Đường, bất công ngang trái vẫn là hiện tượng phổ biến. Bất công ấy đổ lên đầu nhà thơ. Ông ôm ấp chí lớn, muốn làm “con cá vắt ngang biển” (Hoành hải ngư), muốn “chém sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng Lạc Thuỷ” (Tặng Trương Tương Cảo), nhưng ông không khỏi thất vọng. Ông nói: “Tôi vốn không bỏ đời mà đời bỏ tôi”. Có tài mà không được dùng, có chí mà không nơi thi thố, tâm hồn đa cảm mà bất lực trước xã hội. Điều đó tạo nến những vần thơ u uẩn bất đắc chí của ông. Hàng loạt bài như “Hành lộ nan” (Đường đời khó khăn), “Tương tiến tửu” (Hãy cạn chén), “Nguyệt hạ độc chước” (Một mình uống rượu dưới trăng) đã bộc bạch tâm sự ấy. Có lúc ông mượn rượu để giải sầu:

“Đời người đắc ý cứ say đi

Trăng suông chén trống để mà chi.”

             Nhưng rồi cái buồn vẫn đeo đẳng, biến thành phẫn uất:

“Rút dao chém nước, nước vẫn chảy

Cất chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu.”

             Trăng và rượu, tiên và kiếm kết hợp trong tâm tư đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Thực trạng ấy khiến có lúc ông buông thả, hành lạc, nhưng chung quy vẫn là tinh thần tiến thủ, vì cái đẹp, vì cuộc sống vẫn quán xuyến tư tưởng nhà thơ.

(Theo Lương Duy Thứ – trích Đại cương văn hoá phương Đông)

___

Xem thêm:

Hướng dẫn phân tích, cảm thụ văn bản Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến tại đây.

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận