Vẻ đẹp hình tượng con sông Đà – Tài liệu ôn thi THPTQG

Đang tải...

Tài liệu ôn thi THPTQG Ngữ Văn

Bộ tài liệu luyện thi Ngữ Văn được biên soạn theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo; dành cho học sinh THPT ôn luyện, chuẩn bị cho các kỳ thi Quốc Gia. HOC360.NET xin giới thiệu đến bạn đọc bộ tài liệu ôn tập  bao gồm các phần về các kiến thức:

+ Trọng tâm kiến thức tác giả, tác phẩm cần ghi nhớ

+ Các đề bài ôn luyện các dạng văn nghị luận xã hội, văn học.

Hy vọng bộ tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn học sinh lớp 12 ôn tập tốt và đạt kết quả thi cao!

Đề bài chi tiết:

Cảm nhận của anh, chị về vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.

—–~~~—–

I. Yêu cầu của đề:

  • Nội dung: Đề yêu cầu phân tích một hình tượng nghệ thuật, cũng như đề trước, học sinh cần nắm được đặc điểm con người Nguyễn Tuân, phong cách nhà văn và tác phẩm, từ đó khai thác tác phẩm làm nổi bật lên vẻ đẹp hình tượng con sông Đà — công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá ban tặng đất nước, con người. Dưới ngòi bút của bậc du tử tài hoa, hình tượng con sông được sống dậy, gào thét, cuộn xoáy trên những hàng chữ viết như một cơ thể sống có diện mạo, tính cách, vừa hùng vĩ, hung dữ vừa trữ tình, thơ mộng. Tìm đến với con sông, nhà văn được ca hát về non sông, đất nước mình với những vẻ đẹp độc đáo và sang trọng.

Nguyễn Tuân đã vận hành hết bút lực, quan sát, xoay ngắm, miêu tả con sông từ nhiều chiều hướng cốt đế nói cho tới cùng tận về một dòng sông độc đáo, lắm chứng nhiều tật nhưng con người vẫn phải ăn đời ở kiếp với nó. Khi phân tích vẻ đẹp của dòng sông, học sinh phải xác lập ý rõ ràng, mạch lạc. Có thể xây dựng các luận điểm như sau:

+ Phân tích hai câu đề từ của tuỳ bút, qua đó giới thiệu đặc điểm của con sông: hùng vĩ và thơ mộng.

+ Tính chất hung bạo, hùng vĩ của con sông.

+ Chất trữ tình, thơ mộng.

=> Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

  • Phương pháp lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận.
  • Tư liệu: Chủ yếu dẫn chứng trong tác phẩm, có thể dẫn thêm một số tư liệu văn khác cho bài văn thêm sinh động, hấp dẫn.

II. Lập dàn ý

Mở bài

Đọc tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ấn tượng đầu tiên trong tâm thức người đọc đó chính là hình tượng dòng sông Đà — biểu tượng về sức mạnh của thiên nhiên Tây Bắc. Dưới tay hoa của bậc kì tài, hình tượng con sông được sống dậy, hiện hình, gào thét trên những hàng chữ viết như một cơ thể sống có đặc điểm, diện mạo, tính cách vừa hung dữ, hiểm ác gây hại cho con người; vừa là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá: trữ tình, thơ mộng làm hấp dẫn, đắm say lòng người.

Thân bài

Mở đầu tuỳ bút, Nguyễn Tuân đã có hai câu thơ đề từ, giới thiệu hai đặc điểm của con sông: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thứ nhất gợi ra vẻ đẹp kiều diễm, thơ mộng của dòng sông. Câu thứ hai giới thiệu tính cá biệt của con sông Đà, mọi con sông đều chảy theo hướng đông, riêng con sông Đà chảy ngược về hướng bắc. Cái “bắc lưu” cưỡng lại cái “đông tẩu” khiến dòng sông trở nên ngông ngược, dữ tợn, nhiều vực xoáy, luồng chết, đá ghềnh, sóng thác. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật… Tự nhiên thật độc đáo và người kiếm tìm cái lạ hóa trong thiên nhiên cũng độc đáo lắm thay! Thích cái cảm giác dữ dội tới khủng khiếp, mà đã thích thì tả cho tới tận cùng. Chính vì thế con sông Đà đã trở thành “kẻ thù số một” của con người – vừa hung ác vừa thơ mộng.

*Tính chất hung bao, hiểm ác, hùng vĩ của con sông

  • Trước hết ở diện mạo: Diện mạo của con sông được thể hiện ở độ cao, độ hẹp, độ rộng, độ sâu.

+ Cảnh bờ sông dựng đứng vách thành… đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Chỗ vách chẹt lòng sông như một cái yết hầu, có thể ném nhẹ hòn đá sang bên kia, hoặc con nai, con hổ có thể nhảy vọt từ bên này sang bên kia một cách dễ dàng. Chỉ là cảnh đá bò sông dựng đứng vách thành mà Nguyễn Tuân đã so sánh, miêu tả nó thật tỉ mỉ, phong phú, chính xác đến bất ngờ, lạ lùng và ấn tượng.

+ Cảnh ghềnh đá và sóng gió mênh mang: “Hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt…”. Nguyễn Tuân tả sóng gió sông Đà làm người đọc lại liên tưởng tối Gió Than Uyên (1960): “Gió mạnh như sóng bão… mùi gió nhạt nhạt, vị gió ngai ngái. Gió đổ nhà, đổ người, gió chém vào móng ngựa thồ, cuốn rối đuôi và bờm tóc ngựa. Gió giúi gục đầu ngựa. Ngựa bạt hơi. Người ngồi ngựa hộc máu cam trên yên… Lịch gió Than Uyên là cuối đông sang đầu xuân, lồng lộn từ trưa cho đến chiều, càng nắng càng động cỡn”. Cách tả, cách nhân hoá sự vật sinh động hấp dẫn đến kì thú, có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới có.

+ Cảnh hút nước (xoáy nước) sông Đà, đây là hình ảnh kì thú và ấn tượng nhất: “Hút nước xoáy tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn… sâu như giếng bê tông thả xuống”. “Tiếng nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc…“Con thuyền nào vô ý qua đây là bị lôi tuột hút xuống, dìm ngầm khoảng mươi phút sau mới nổi lên và tan xác ở quãng dưới”. “Thuyền nào muốn thoát chết phải lướt nhanh y như người ta sang ấn số ga cho xe, vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Chưa hết, cái hút xoáy còn dẫn trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến một trường liên tưởng khác của điện ảnh để truyền cảm giác vừa lạ, vừa rùng rợn, sợ hãi cho người đọc. Nhà văn tưởng tượng ra một anh bạn quay phim ngồi vào một chiếc thuyền thúng để hút nước, hút cả người cả máy xuống tận đáy, từ đó anh ta “lia máy quay ngược lên vách thành hút nước mà thu cảnh, cảnh nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người”. Rồi cảm giác rùng rợn ấy truyền sang cho cả người xem, khiến người xem phải “ghì chặt lấy ghế ngồi như ghì lấy chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê khổng lồ”…

=> Những câu văn viết ra không chỉ để khoe tài mà Nguyễn Tuân muốn thể hiện hết mình, muốn khai thác tới kì cùng cái nguồn thẩm mĩ vốn có của sông Đà để dâng tặng người đọc chiêm ngưỡng con sông qua nhiều cảm giác kì thú. Nhà văn thả sức mình lật xoay, ngắm nghía một dáng sông, mượn ngôn ngữ của tất cả các ngành nghệ thuật khác để soi chiếu, bất chợt tung ra những tưởng tượng lạ kì khiến người đọc phải xuýt xoa thán phục.

+ Cảnh thác nước — Nguyễn Tuân tiếp tục khiến ngươi đọc phải kinh ngạc và thán phục hơn khi ông lấy lửa, lấy rừng để tả nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên, … nghe như oán trách, rồi lại như van xin… Thế rồi nó rống lên như một ngàn con trâu mộng lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nhà văn sử dụng hàng loạt biện pháp tu từ nhân hoá, vật hoá… để miêu tả âm thanh của thác nước sông Đà vừa như kẻ điên cuồng, lồng lộn dữ dội biết gầm, réo, trách móc, van xin, lại vừa như một đàn trâu mộng đang bị lửa đốt điên cuồng phá phách. Nguyễn Tuân đã làm thức dậy cả một thế giới thiên nhiên man dại đang ở đỉnh điểm của dữ dội. Ông phải là người rất am hiểu về âm nhạc mới có cách phối hợp giữa âm thanh và hình ảnh một cách tài tình như thế, làm nổi bật lên sự khủng khiếp của thác nước sông Đà đem lại cảm giác đầy hiếu kì cho người đọc.

  • Từ bề mặt đến lòng sâu, Nguyễn Tuân gọi đó là “kẻ thù số một” của con người được thể hiện bởi sự nguy hiểm chết người ở chân trời đá.

+ Đá mai phục từ ngàn năm, dưới con mắt của Nguyễn Tuân, đá sông Đà không còn là vật vô tri vô giác mà sống động như một nhân vật.

+ Mặt đứa nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, đứng ngồi tuỳ thích.

+ Biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn Tử, có cửa sinh, cửa tử, có phòng tuyến trước, sau; biết dụ, biết lừa, biết đánh, đá, hỏi, thách thức, reo hò vang dậy uy hiếp con người.

=> Cả đoạn văn dài mà đặc sắc, với trí tưởng tượng phong phú, với tài năng uyên bác, Nguyễn Tuân đã vận dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau như võ thuật, thể thao, quân sự… để biến đá thành bầy thạch tinh hung hãn, ma quái trước con người. Ngôn ngữ sống động giàu giá trị tạo hình, phóng túng mà không tuỳ tiện. Tất cả được hình thành từ những quan sát cụ thể, tinh tế và độc đáo của tay bút bậc thầy.

*Chất trữ tình, thơ mộng

Khi viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà, nhà văn cũng dồn hết tâm huyết, dụng công tìm tòi khó nhọc để mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú về một con sông, về một vùng đất giàu giá trị “vàng” – Tây Bắc với những trang văn dạt dào cảm xúc.

Đây là những đoạn không có thác, ghềnh, đá, con sông trở nên mềm mại, hiền hoà, duyên dáng như một thiếu nữ, như một “cố nhân” gợi nhớ gợi thương, lung linh huyền ảo như dòng sông cổ tích.

+ Quan sát từ trên máy bay, sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo… Từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây”... “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Cách so sánh thật tài hoa, nhà văn đem đến cho người đọc một cảm nhận thơ mộng, tinh tế về con sông đẹp, mềm mại như mái tóc của một mĩ nữ. Một câu văn dài, dài như dòng sông; một bức tranh thuỷ mặc cứ vương vấn mãi trong tâm hồn người đọc.

+ Quan sát cận cảnh, con sông được nhìn ở mọi không gian, thời gian, trải qua bốn mùa xuân — hạ — thu — đông. Nước sông Đà mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt ngươi bầm đi vì rượu bữa. Cách quan sát, chọn từ thật kì công, ai bảo Nguyễn Tuân không khó nhọc.

+ Dòng sông Đà trong liên tưởng lại lấp lánh một vẻ đẹp cô thi. vẻ đẹp của một “cố nhân” gợi nhớ khi xạ, người đọc như lạc vào sắc nắng vàng hoe của: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà ùa tràn thành nhịp điệu: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng… Nó đầm ấm như gặp lại cố nhân…”. Niềm vui trào lên ngọn bút, vẽ lên bức tranh thơ mộng, sông Đà càng thêm trữ tình, kì thú.

+ Ven sông êm ả, lặng tờ, một vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông Đà ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự yên lặng đến tột cùng, đó là đặc tính của dòng sông Đà ở quãng trung lưu này. Con sông mang trong mình cả nét cổ kính thiêng liêng của hồn thiêng sông núi từ ngàn xưa.

+ Cảnh đôi bờ cũng thật kì thú, thiên nhiên trong trẻo nguyên sơ: “Nương ngô nhú lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, đàn hươu cúi đầu ăn cỏ…” Hình ảnh hoa bướm rực rỡ sắc màu, những con nai vểnh tai ngơ ngác, … dưới sông những đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc.        

=> Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc những trang văn tuyệt vời, chưa đến nhưng ta có thể cảm nhận mọi sự sống đang cựa mình trong hơi thở của vũ trụ bao la… Tất cả đều thấm đẫm một vẻ tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống. Dòng sông khi hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích, khi lai láng chất trữ tình của Tản Đà gửi người tình chưa quen biết… vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như thôi miên ngươi đọc vào mê cung cảnh vật sông Đà đẹp đến say người, gợi bao khao khát về: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

Kết bài

Tuỳ bút Người lái đò sông Đà đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy, chỉ qua việc miêu tả hình tượng con sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ là một cây bút vừa tài hoa vừa uyên bác. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc bằng cả đôi mắt và tâm hồn của một nghệ sĩ tài năng, tinh tế, nặng lòng với quê hương, đất nước để hiến dâng cho người đọc một thiên tuỳ bút kì thú về vẻ đẹp con sông — một công trình mĩ thuật độc đáo mà tạo hóa đã ban tặng cho Việt Nam đất nước con người.

» Xem thêm : Nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân tại đây.

 

 

 

 

 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận