Người Lái Đò Sông Đà – Những bài giảng văn chọn lọc

Đang tải...

Mời bạn đọc tham khảo bài phân tích tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân) trong cuốn sách “Những bài giảng văn chọn lọc” do GS. Lê Trí Viễn biên soạn. Mong rằng bài phân tíchNgười lái đò sông Đà” sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích dành cho sinh viên, học sinh và những người làm công tác giảng dạy văn học.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

NGUYỄN TUÂN

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở Hà Nội, quê làng Nhân Mục, huyện Từ Liêm, Hà Nội, gia đình nhà nho. Học trung học ở Nam Định, bãi khoá, bỏ học. Viết văn, làm báo sớm. Nổi tiếng với loạt truyện ngắn đăng trên các báo Tao đàn, Tiểu thuyết thứ bảy. Là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi lãng mạn thời kỳ mới, trước Cách mạng tháng Tám. Ngoài tập truyện ngắn có giá trị Vang bóng một thời, những tác phẩm khác của ông thời này bàng bạc một tinh thần dân tộc kín đáo nhưng chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực như các tập Tuỳ bút I (1941), Một chuyến (1941), Tóc chị Hoài (1943), Tuỳ bút II (1945). Sau Cách mạng tháng Tám có tiếng nhất là tập Sông Đà (1960). Làm việc rất nghiêm túc, viết gì cũng nghiên cứu, điều tra kỹ lưỡng. Có vốn văn hoá rộng. Đặc biệt chú trọng lời văn, sao cho thật vừa mình, thật mới, thật hay, có dấu ấn Nguyễn Tuân rõ rệt, không thể lẫn lộn với ai, do đó mới và hay thấm thìa, nhưng im khi cũng thành cầu kỳ.

         1. Người lái đò sông Đà là một bài trích trong tập Sông gồm 15 bài, sau đó thêm bài Sông Đà đỏ. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc Tây bắc từ Lai Châu về Sơn La. Thực tiễn xây dựng lại bản làng sau 1954, phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một nỗi vui sống bao trùm lên tất cả, chen lấn những cảm tưởng kỳ vĩ về đất nước và có người cũng như những xúc cảm trữ tình trước cái đẹp lạ lùng và hấp dẫn.

         Người lái dò sông Đà là một bài tiêu biểu.

         Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện với con sông Đà, nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Thành thử mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sông trên nhiều góc độ khác nhau, bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đi với con sông đại biểu cho núi non, con người xứ Tây Bắc xa xôi, ít được nói, được biết này. Nghĩa là với lối viết của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở thành con sông Đà của Nguyễn Tuân. Con “Sông Đà – Nguyễn Tuân” ấy là con sông của đất nước, con sông có lịch sử, nhất là lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử cách mạng, con sông trữ tình, con sông anh hùng ca, con sông tạo nên những con người anh hùng, con người của nó, bình thường mà kỳ vĩ, tất cả đều được vẽ lên bằng ngòi bút biến hóa luôn luôn tài tình, độc đáo rất Nguyễn Tuân, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến chỗ sâu nhất của tâm hồn.

         Bài này sẽ lấy con sông Đà làm chủ thể – người lái đò cũng được xem sản phẩm của sông mà thôi.

         Bài văn này là một bài tuỳ bút. Với tuỳ bút cũng có thể phân chia bài văn thành đoạn, thành phần. Nhưng có ích hơ cho việc tìm hiểu có lẽ là vài điều sơ lược về thể loại này .

         Tuỳ bút nằm trong phạm vi thể ký, nhưng lối viết tương đối rộng rãi. Chừng nào, theo tên gọi, người viết có thể tuân theo cảm hứng của mình mà đưa cây bút gần như tuỳ theo muốn của cây bút, từ việc này nhảy sang việc khác, từ liên tưởng này chuyển sang liên tưởng khác, nghĩ suy, xúc cảm trước việc và người, trước cảnh và vật đều có thể xen nhau, kể cả việc và nhân vật, nhưng tất cả đều dựa theo một trật tự nhất định, nhằm làm nổi chủ đề của bài viết theo dụng ý của tác giả. Điều cốt yếu là quan sát, nghĩ suy, xúc cảm đều phải chân thật sâu sắc. Lời văn cũng đòi hỏi có chiều sâu.

         Các đặc điểm ấy của thể loại tuỳ bút đều thấy rõ ở Nguyễn Tuân, nhà văn chuyên về thể loại này.

         2. Sông Đà trong địa lý và trong lịch sử.

         Nói về sông Đà, xưa nay có nhiều người. Dân gian có truyện cổ tích Thác Bờ, có thành ngữ về ma thiêng nước độc “Kim Bôi Hạ Bì” (ở Hoà Bình)… Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn từ Lai Châu về còn có câu “Đồn đại những ba trăm thác dữ, mà nay chỉ thấy có một dòng xuôi”, lấy sông Đà mà nói chuyện đánh dẹp giặc dữ thành công. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ… các nhà Cần vương hoạt động ở Tây Bắc, các nhà ăn trong hai cuộc kháng chiến. Văn chương thế giới tả sông, tính phạm vi hiểu biết đã mở rộng ngày nay, cũng không ít. Chỉ kể một vài thì văn chương Trung Quốc đã sớm in vào trí nhớ và xúc cảm của người Việt nhiều thế hệ là dòng sông Thương Lang nước trong nước đục của Khuất Nguyên, con sông Hoàng Hà từ trời cao rơi xuống ở Lý Bạch, bến sông Trường Giang với cảnh hoa dương liễu làm cho khách qua sông sầu đến hết được, bến Tầm Dương với lau lách đìu hiu, cái lạnh của sông Dịch như còn lạnh mình với sự hy sinh hào hùng của tráng sĩ … Vãn chương Pháp thì nhà trường vẫn còn vang giọng thác Niagara kéo dài trên thảo nguyên mênh mông trong đêm trăng thanh vắng với lời vãn đầy thơ của Satôbriăng. Sông Hằng to lớn, hùng vĩ, linh thiêng đã hiện ra ở Mahabharata lại hiện ra hiền hoà, kỳ diệu ở Tago. Sông Vônga, sông Niép hiền hoà, bao ung, mơ màng rồi khắc khổ ra sao ở Gôrơki, ở Sôlôkhốp… Sông này sông nọ như vậy nhưng mỗi nơi chỉ một nét, một cảm xúc của người cầm bút. Không đâu như con sông Đà này của Nguy Tuân.

         Có cả địa lý. Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vi Nam bên Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, đi qua một vừng nước ác, ròi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam trưởng thành mãi lên và đến ngã tư Trung Hà thì chan vào sông Hồng. Con sông mà nghe như con người, nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng thành. Ngôn ngữ hóa bảo đó là nhân hoá, kỳ thực đó là nghệ thuật hoá, coi sông đời sống, có tính cách, có cá tính rất vững, rất độc đáo.

         Cả địa lý lịch sử. Thời xưa, nhà Trần lấy sông Đà đặt tên cho một trong 15 lộ của cả nước: Đà Giang Lộ. Chính vì vậy mà Truyền kỳ mạn lục có truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bài cảnh đời Hồ cuối đời Trần. Đà Giang Lộ là vùng đất từ Hưng Hoá trở lên. Bây giờ ta gọi là vùng Tây Bắc, từ Lai Châu xuôi về Hoà Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân) khổng lồ là sông Đà, nhìn từ trên máy bay xuống.

         Có lịch sử và cách mạng. Con sông bao giờ cũng trước tiên là một nguồn sống. Miếng nước, con cá, con đường biết đi, lưu vực phù sa, cái mát mùa hè, tụ họp đầu tiên để lập nghiệp thành tộc này dân nọ là ven các bờ sông. Nhiều nền văn minh bắt nguồn từ những dòng sông. Con sông là trời sinh, nhưng con sông cũng do người góp phần tạo lên bằng công sức mình. Lịch sử dù biến thiên, con sông Đà vẫn là của người dân của Tây Bắc nước Việt. Nó dữ, nó hiền là một chuyện, nhưng có người vẫn ăn ở đời với nó. Không nói chuyện quá xưa. Chỉ gợi lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, con người xứ Thái này (cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, ông hoài giáp tuần phủ Hưng Hoá ấy đã chiến đấu đến cùng và trong thơ nhật ký hành quân của ông đã có bao nhiêu tên đất tên nước thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó là thời thằng Tây cai trị với đủ bọn lang đạo địa chủ giam tham độc ác. Con sông bị chúa đất từng vừng đem cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm! Đế quốc đóng đồn bót ven sông, tính dữ ác con sông lại tăng thêm mấy lần.

         Tuy vậy, người xứ Thái không chịu rời sông. Chưa nghe có cách mạng mà năm trăm thanh niên chở đoàn thuyền hàng trăm chiếc xuôi về Hà Nội chở thóc lên Hoà Bình cho Tây đã không chịu được cảnh mưa trên nguồn dội xuống dầu, gió sông táp vào mặt kể ra không thám gì với những lời chửi mắng của bọn quan và lính ấp tải, nên một buổi chiều sông Đà nổi sóng, cá sông Đà quẫy mạnh, họ cũng một loạt rút cọc chèo, bơi chèo giải quyết nhanh cái trung đội đi giải tù. Người lái đò Quỳnh Nhai kể như vậy, rồi tiếp: Bây giờ thỉnh thoảng đi chở hàng mậu dịch cho chính phủ, vẫn gặp lại một số anh em cũ của cái đêm mưa bão đi trốn khỏi bến Tà Bú ấy… Mười lăm năm đã qua đi trên sông Đà. Con sông Đà quê hương ngày nay thấy khác trước rồi… Từ đó đến cảnh đoàn thuyền cắm quốc kỳ đang ghé bến kia là đoàn thuyền của các đoàn chuyên gia ta và chuyên gia bạn đi nghiên cứu sông Đà, để rồi trị con sông dữ tợn này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống Tây Bắc. Từ đó tới nay đã trên hai mươi năm. Công trình thuỷ điện Hoà Bình đã xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm nên điện và nên hồ. Hồ dài hàng trăm kilômét là cảnh du lịch, là nơi nuôi cá, là đường giao thông thuận lợi, tàu bè lên xuống nhẹ nhàng không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù rất nên hào hùng như thưở xưa.

         Hồi ấy, năm 1958, nhìn thấy đoàn chuyên gia, tác giả đã nổi hứng muốn làm một cán bộ thông tin để ghé khắp các bến lớn bến nhỏ ở bên bờ phải, ở bên bờ trái sông Đà mà chuyền đi cái mới ngồn ngộn sức sống này. Niềm vui ấy là chân thực, không riêng cho một ai mà cho tất cả con dân Tây Bắc, con dân cả nước. Nó hết sức lớn lao vì nó mang rất nhiều ý nghĩa.

sông Đà

Hình ảnh người lái đò sông Đà

         Có điều, để hưởng được và hưởng trọn niềm vui có một sông Đà được cải tạo thành hồ, thành thuỷ điện, cho đến tận nay cũng chưa phải dễ dàng.

         3. Sông Đà dữ, sông Đà anh hùng ca.

         Người lái đò sông Đà tuyên bố: Chợ Bờ, cái biên giới thủy phận cuối cùng của đá thác sông Đà… Từ chợ bờ xuôi dòng hết ghềnh hết thác. Sông Đà hình như hết cả đậm đà với nhà đò. Như vậy, sông Đà đúng với cái danh của nó là từ Chợ Bòn trở lên. Phải đúng ba trăm cái thác đá mới là sông Đà. Còn cái tên sông Đen (Pháp gọi là rivière noire) nhà nho dịch hai chữ Hắc Giang (hắc: đen), Nguyễn Tuân đã lớn tiếng mắng vào cái láo toét của tên Tây nào đó vừa bịa vừa xược đối với đất nước ta, chứ tuyệt nhiên, hai bên bờ sông từ nguồn về xuôi chẳng có cái gì để dựa mà đặt ra cái tên ấy (nó không như biển Đen vì bờ biển nhiều rong màu đen). Làm chứng cho lờ nói của mình lại thêm chút mắn muối mà đậm đà chất sống người lái đò già đời trên sông chua thêm: Chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó đến dại tay dại chân và buồn ngủ. Sông Đà, đối với ông như một trường thiên anh hùng ca.

         Tạo được môi trường anh hùng ca phải là cái gì dữ dội nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải là thiên tài, tối thiểu là tài ba hiếm có, mà phải kiên trì, có khi cả liều xông vào chỗ chết để giành lấy cái sống, và cố nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang.

         Sông Đà quả là một môi trường như thế. Bản chất nó đã vậy. Tài ba của nhà văn càng làm cho bàn chất ấy sắc nhọn thêm, dừ dội, nguy hiểm thêm bội phần.

         Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng trời trăng, nhà cửa, làng bản ven sông là lầm trong cảnh quan của sông, nhưng những cái đó thường hiền hoà, chưa nói tươi đẹp, ấm vui, hoặc không nói hoặc để lùi ra sau. Trước hết nói cái ruột nhất của sông.

         Cát là vật bình thường nhất chứ gì? Cát trên sông có hại chăng là khi nó thành gò làm thuyền bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nham nháp ấy của sông Đà làm loét cả da nếu chỉ đống khó chứ đừng nói bận quần, vì nó chui vào bẹn và ăn luôn da, còn ở truồng mà lội nước thì nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà dục thủng đáy và mạn dưới các thuyền gỗ. Thế là cát dữ.

         Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn diện. Có cảm tưởng nghe một lời tả về cảnh Tam Hiệp (ba hẻm) trên sông Trường Giang trong sách Thuỷ Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ VI). Lời văn dùng chi tiết chính xác đúng khoa học và chen vào nhận thức của cảm quan tác giả khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ, như nào là chẹt lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng cao vút, đúng trưa mới thấy mặt trời nên mùa hè vẫn lạnh, khi thì pha chút hóm hỉnh ngầm bọc trong những nét rất khoa học như con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông, chỉ còn là cái dải yếm trong ca dao, nào là đứng ở hè ngóng vọng lên một khung cửa sổ từ cải tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện.

         Gió cũng đáng sợ. Ở quãng ghềnh Hát Loóng là một vương quốc của gió phối hợp với nước, với đá, với sóng thành những cơn xoáy: Nước xô đá, đá xô nước, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cuồn cuộn từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nài cũng đòi nợ xuýt (nợ xuýt: nợ không có cũng đòi), mà không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò lại và lật ngửa bụng thuyền ra.

         Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì đáng sợ bằng cái hút nước. Chắc cái tên này không phải của tác giả đặt mà là của đồng bào sở tại, ít ra là từ các vị lái đò trên sông này. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước đương xuôi êm thấm, bỗng dưng không thấy vướng một vật nào nổi lên trên mặt cả mặt dòng nước tới đó cứ xoáy vòng tròn vo thành vòng rất đẹp đẽ trũng xuống một cái lõm đồng tiền trên một cái má xinh xinh. Ai ngờ đó là nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng nước. Ban trưa thanh vắng, ra sông, chỗ bờ hẵm thành vực, thấy những dòng xoáy ấy, trẻ con người lớn gì cũng phải sợ hãi bởi đã từng nghe lời truyền mê tín nhưng rợn gáy là ở chỗ đó ông thần bà thần gì dưới nước bắt người xuống hầu hạ hoặc lấy gỗ lấy người xây cung điện gì cho thế giới bên kia, người nào, gỗ nào lọt vào đó là chìm xuống mất tăm. Cái hút nước ở sông Đà hiện đại hơn: nó như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, nghĩa là hình thù nó vậy. Nước ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy, có lẽ sông Đà mới có. Còn những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là thuyền mà lạc vào đó thì thuyên tròng ngay cây chuối ngược ròi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới.

         Cái đáng sợ nhất của sông Đà chưa phải là những cái đó mà là đá và thác, thác và đá thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn, Thạch Thuỷ Trận.

         Nguyễn Tuân dụng ý trình bày một thứ trận chiến như kiểu Bát trận đó của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô, mà Khổng Minh sáng tạo lại. Có nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà trận nhưng có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận nhưng có trận trước trận sau, trận trên trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong có dự bị… Không có tướng chấn cửa, những Ngụy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng, Trương Bào nhưng có những tướng đá và quân nước. Đá thì ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, có thuyền xuất hiện là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy… Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó… Tưởng như chúng nằm ngồi rải rác tuỳ tiện, nhưng không phải. Hình như sông đã giao việc cho mỗi hòn, sông bày Thạch Trận, Thuỷ Thạch Trận.

         Đá được phân công hẳn hoi. Đám tảng đá hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông. Hai hòn canh một cửa đá giữ vai trò dụ cải thuyên đối phương vào tận tuyến giữa rồi nước sông luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một thế trận khác lại đã bày sẵn. Tướng tá ở đây oai phong lẫm liệt. Có vẻ như các tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu thì hất râu, đá giáp, múa tít cây thương hay xà mâu, còn đây thì một tướng đá như đang hát hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một tướng tá khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều lần lượt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng nhử được thuyền. Cuối cùng, cái thằng đá tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt canh lè thất vọng. Tưởng đâu như sắp bị khép vào tội trong binh pháp: quân thua chém tướng.

         Hết đá đến nước, quân nước.

         Đá dưới nước ở đâu cũng không hiền. Nước vốn êm dịu. Nhưng kết thân với đá, với gió, nước trở nên hung dữ. Nước sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược. Chỉ lắng nghe tiếng kêu của nước cũng đã thấy ghê ghê. Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng dã tháy tiếng nước réo, gần lại to mã lên. Đâu réo có một giọng. Lúc nghe như oán trách, rồi lại như van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo. Bỗng dưng, không biết chuyện gì, nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn vì da cháy giữa rừng vầu rừng tre bốc lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá chặn, một đằng nước sóng luồng nhằm thuyền mà dành vu hồi, đồng thời reo hò làm thanh viện. Có lúc nó reo như đun sôi lên một trăn độ muốn hát cái thuyền đang phải đóng vai một cải nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút, ở đó nước ặc ặc lên như vừa dót dầu sôi vào. Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ ổ gà chỉ có trên đường bộ, đường không. Mặt sông cũng có ổ gà. Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên. Nước lại theo luồng. Chỗ khác, sông có nhiều luồng. Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, có luồng đi vào đứng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường. Lúc khác, nó có thể dội thuyên lên, bám vào thuyền như đô vật túm thắt lưng lái dò đòi lật ngửa ông lá đò cho phơi bụng giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Nước đã thành võ sĩ thực thụ. Nó đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò, hột sinh dục vụt muốn thọt lên cổ. Bây giờ thì nó lại là con ngựa bất khan. Nó đang tế mạnh trên sông đà. Thế là ông lái nắm chặt cái bờm sóng ghì cuống lái, phóng nhanh vào cửa sinh. Nó đành chịu thua. Nhưng đến chỗ cái hút, nó rình sẵn, thuyền nào lơ mơ là nó rút luôn tận đáy, chết không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ.

sông Đà

Hình ảnh người lái đò sông Đà

         Sông Đà quả không sai với tiếng đồn. Nó rất dữ. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những Thạch trận, đá và nước hùa nhau bẫy người vào chỗ chết. Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt nhiều con ngươi của mình để có hàng tràng những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có tính trí tuệ vừa có chất tạo hình, vượt lên trên xa thủ pháp quen gọi là nhân hoá. Cũng là đá mà là dân quân phục kích, là bộ đội giăng hàng bày trận, là tướng giữ cửa tử cửa sinh trong trận đồ Khổng Minh, là tướng trên sân khấu tuồng, là tướng thua trận trên chiến trường… Là nước mà khi là tiếng kêu tâm trạng, khi tiếng reo hò của quần chúng, khi là đô vật, khi thì là lực sĩ đội thuyền, khi thì là thần hút người xuống đáy… Do thế mà cái dữ của sông Đà càng dữ, càng trở nên môi trường anh hùng ca hoàn toàn độc đáo.

         4. Sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình.

         Cái dữ dội của sông Đà rồi có các ông lái đò trị được. Chiến thắng ấy là một nét đẹp: con người chiến thắng được thiên nhiên. Ngay trong cái dữ dội, tác giả chốc chốc cũng ý thức được ràng một tí vui vui, nghịch nghịch cũng làm cho cái cứng rắn của thiên nhiên mềm đi ít nhiều.

         Lên thác phải chống bằng sào. Thế là trên vai, chỗ vú của người lái đò, mũi sào in vào một khoanh bầm củ nâu. Đó là hiện thực khách quan. Tác giả bình thêm và cẩn thận đặt trong ngoặc cái đòng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của nột thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà. Cái vết bầm tự nhiên được nâng lên tầm anh hùng ca. Vì sợ cát chui vào ben làm loét da, lái đò sông Đà mặc áo chứ không mặc quần. Nhưng tại sao tác giả lại viết: Những chị Mường Phù Yên gần bờ sông Đà thường phàn nàn về người lái đò Lai Châu hay cởi truồng? Xin lỗi, cởi truồng đã đúng mà các chị Mường Phù Yên phàn nàn cũng đúng. Có điều thiếu sự phàn nàn ấy thì cò gì mất vui, giảm ý nhị của cái việc thiếu lịch sự bất đắc dĩ ấy của các vị đàn ông. Bờ đá dựng vác thành, mặt sông chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Sông chẹt lọt như cái yết hầu. Con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia. Đò thuyền qua dây, mùa hè mà nghe lạnh. Lại có cảm giác như đứng ở bờ hè nhìn ngước lên cửa sổ ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Nói dữ thì cảnh như vậy cũng dữ nhưng hùng vĩ cũng là cảnh đẹp hùng vĩ. Cái hút nước là cái đáng sợ. Vậy mà tưởng tượng cứ chui xướng đáy nước rồi lia má quay phim ngước lên cái mặt giếng mà thành giếng xây tòa bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày… tỉ cái hút ghê gớm kia lại trở thành cảnh đẹp không ngờ. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà trong như cái dây thừng ngoằn ngèo chứ không ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc. Cũng từ trên không ấy mà nhìn thì có lúc lại thấy sông Đà như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc dần hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo dốt nương xuân. Nước sông Đà màu đẹp. Mùa xuân màu xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Găm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Mà nọ màu kia hoàn toàn chính xác, điều đó không nói làm gì nhưng cái áng tóc kia sao lại là áng tóc chữ tình? Dĩ nhiên nó phải là cái nhìn từ trên trời nhìn xuống và nhìn khắp lượt những từ chân tóc tới đầu tóc, nó buông nó thả, nó uốn nó quanh, nó trải nó co – thiếu một mùi thơm của nước hoa bướm và của tuổi xuân tơ – nó là con sông mà sao nó nói bao nhiêu điều cho khách nhìn? Nó lại ẩn hiện chập chờn trong khói đốt nương và mây trời bung nở trắng xoá hoa ban, đỏ hồng hoa gạo. Khói lam, mây trắng, mây hồng, đây che đó bầy cái áng tóc của ai đó, sao mà trong âm hưởng Nguyễn Tuân, nó như nhắc lại áng tóc chị Hoài thời xưa (Tóc chị Hoài: một tác phẩm của Nguyễn Tuân trước cách mạng), một áng tóc mê ly.

         Tạm coi như điều trên đây là cái nhìn. Còn đây là cái cảm. Tác giả nói ngay: Con sông Đà gợi cảm. Mỗi người mỗi khác. Với tác giả, có lần ông nhìn nó như một cố nhân, một người thân, người thương cũ, lâu ngày mới gặp lại. Cố nhân ấy đã xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi thành một vệt loang loảng rồi mầu nàng tháng ba Đường thi “yên ba tam nguyệt hạ Dương Châu” (thơ Lý Bạch trong bài Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng), ôi, cái nắng tháng ba trên sông vừa khói vừa nước sáng loáng, mùa xuân đang lại, nhựa sống lên cành lên thân, lên tim, nó đẹp, nó ấm áp làm sao! Ông bạn thơ của Lý Bạch ra đi vào cái thời tiết hoa khói ấy có thấy dồn lên trong từng thớ thịt chất men xuân không thì chưa rõ, nhưng ở tác giả đoạn văn này thì ông như trộn lẫn người mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn tan trên sông, của cá đầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ tranh dẫm sương đêm, của sông Đà thơ mộng theo hồn Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” và của cả những nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa…

         Sông nước, bến bờ, tịnh không một bóng người. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, gần nhất cũng thuở Lý, Trần. Đầy cảm nghĩ lên ngược thời gian xưa sơ, bỗng dưng tác giả lại thèm một tiếng còi síplê (tiếng Pháp: sifflet là còi) của một chuyến xe lửa Yên Bái – Lai Châu để cho nỗi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại, cho cảm nghĩ gồm đủ hai chiều kim cổ. Cuối đoạn văn trữ tinh này, lại là một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước êm đang nhớ các bạn đá ghềnh, của giọng người miền xuôi thoáng rộng, êm êm, của những cánh buồm mở rộng tha hồ đón gió tứ phương trên những con thuyền mình nở chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc tràn ra mênh mang, bất tận.

         Sông Đà dữ thật nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.

         5. Sông Đà tạo ra những con người cho mình.

         Không dám nói tới toàn thể con người Tây Bắc. Chỉ khoanh lại con người lái đò.

         Cụ Tam nguyên Yên Đổ nhà gần một anh hàng thịt. Một lần anh mang biếu cụ bát tiết canh, đôi bồ dục và xin cụ câu đối mừng năm mới. Cụ nhìn món quà và viết luôn: “Tứ thời bất tiết canh chung thuỷ, Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang” (Bốn mùa tám tiết thay nhau hết đầu đến cuối, Bờ liễu đám bồ chừng muốn khoe đẹp). Nghĩa câu chữ Hán dịch ra vậy thì mất tiệt cái thần của câu là trong đó, tuy là mừng xuân đến nhưng gài vào đó mấy chữ bát tiết canh và đôi bồ dục đọc theo âm Việt và theo nghĩa Việt. Anh hàng thịt lợn chữ nghĩa mù tịt, chỉ nghe cụ đọc và ngâm lên là hiểu ngay ý cụ: cụ bảo bát tiết canh và đôi bồ dục là tình anh đối với cụ và việc ấy cứ nên thuỷ chung, trọn vẹn. Anh chả cần ai cắt nghĩa, giảng giải gì sất, mà hiểu ngay. Ấy vì cả đời anh mổ lợn thì bất cứ cái gì thuộc về lợn mà anh không thuộc lòng? Nghệ giả sở sử” (cái nghề nó dạy), người xưa nói quả đúng.

         Trở lại ông lái dò sông Đà. Ông sinh bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ thuở để chỏm. Chắc chán ông cũng đã hụp lặn trong lòng sông. Bây giờ nghỉ đò đã vài chục năm sau mười năm lên ngược xuống xuôi, cầm lái sáu chục phen, trăm phen đi về từ Lai Châu tận Hà Nội, bến nào, đá nào, luồng nào mà ông không thuộc. Mà con sông này sức cải hóa của nó là ghê gớm, quyết liệt có một không hai. Cái phép của công là sắt đá số một. Cho nên, ở ông lái đò này, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của con sông?

         Từ hình dáng bên ngoài: Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào củng mong một cải bến xa nào đó trong sương mù. Cuộc sống sông nước đã rèn cho ông một thân hình cao to và gọn quánh như chát sừng chát mun. Cũng cái nghề ấy đã biến tất thảy những lái đò sông Đà chỉ khoẻ có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém. Cử chỉ của ông cũng đều theo dáng lái thuyền: ngắt lời người khác, ông nhanh như một tay lái rẽ ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo.

         Từ hình dáng đến hiểu biết. Lái đò, ông biết con đò. Tại sao thuyền Tây Bắc chỉ mình thon chứ không nở? Không phải vì xứ này thiếu gỗ, trái lại cũng không phải vì không biết thuyền mình nở thì chở được nhiều hàng. Phải đóng thuyền then đuôi én thì mới qua được các cửa luồng đá ép lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đò sông Đà ở miền cao thì cần sào chống, chèo bơi, cần nữa thì dây kéo, ít khi dùng buồm. Về dưới xuôi, cần buồm thì can hai cầy sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và sông Đà thường là vướng núi, cải buồm di dộng trên lươn núi, vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người hai bờ sông Tây Bắc. Đến con sông thì coi như ông thuộc tựa lòng bàn tay. Sông Đà đối với ông, chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bờ trở ngược. Về xuôi, hết thác hết đá, lái thuyền dại cả tay cả chăn, buồn ngủ nữa. Cát sông Đà làm loét da non chỗ bẹn nếu đóng khố, lội nước sông Đà, cát đục thủng gan bàn chân như hà ăn. Sông Đà chỗ nào vách đá dựng đứng như thành cao vút khép sông lại còn cái eo, con nai con hổ có thể vọt qua được chỗ nào gió, sóng, đá hòa nhau thành khúc nhạc rợn  người, chỗ nào có những hút nước là những cạm bẫy kinh khủng cho ghe thuyền. Đặc biệt là luồng lạch, thác đá, bao thác, thác ở đâu liên tiếp mấy thác, đá giăng hàng, bày trận ra sao, luồng nào sinh luồng nào tử, tim luồng ở đâu, lên thác ra sao, xuống thác thế nào, ông biết. Không phải tự nhiên mà thành thạo. Thành thạo rồi cũng thể chủ quan, hững hờ, chứ đừng nói lơ là. Phải rèn luyện, rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng. Cái nghề lái đò này là vất vả, thật vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và  luôn tim nữa. Chẳng khác gì công  nhân đứng máy mà vòng quanh đến hàng vạn vòng phút, căng thẳng cực độ. Không thể đem so lái đò sông Đà với lái ôtô đường đèo. Bởi khác nhau căn bản là ôtô cố phanh, còn thuyền xuống thác thì chỉ có chạy chứ không lùi không dừng được. Lên ngược phải kéo thì ngực vú, bả vai người lái dò chống sào hay bầm lên một khoanh củ nâu, nó là vết nghề nghiệp của đầu con sào gởi lại đời đời cho người lái đò sông Đà như một thứ huân chương lao động sông Đà ban cho. Lên thác tuy vậy mà chỉ vất cả nhưng tránh được cái nguy hiểm. Chẳng như xuống thác. Xuống thác, người lái dò sông Đà linh hoạt và luôn luôn cơ động mà phối hợp đôi mắt, đôi tay, đôi chân, thần chết chỉ đến những tay lái kém cái tính phối hợp và tính ứng phó linh hoạt dó.

         Đời người lái đò sông Đà là một đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe thuật một chuyến xuống thác đủ biết. Lúc đó, thiên nhiên sông Đà là kẻ thù số một. Nhìn nó, thấy nó không “thi đời Đường” nhàn hạ mà là một cuộc đấu tranh để giành sự sống từ tay nó về tay mình.

         Đá bày trận như thế nào, nước reo, nước rống, nước ặc ặc ra sao. Luồng nước sinh có đá canh giữ cẩn mật, luồng nước tử có đá dụ vào, lúc luồng ở tay trái, lúc luồng chuyển tay phải, mặt mày thằng tướng đá nào như thế nào, khi nào thì đè lên đầu luồng mà tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sổng nước mà vượt, vững tay lái ra sao khi chung quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện… Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rã rời vậy mà qua xong thác, khi làn sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, sông nước lại thanh bình thì chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi của ải đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Hết thác, sông lại thanh bình thì lòng lái đò cũng bình yên. Chiến đấu gay go vô kể, nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không có gì đáng hồi hộp đáng nhớ. Sông Đà, đối với ông lái đò, quả là một trường thiên anh hừng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng. Bản thân ông cũng sống một đời hào hùng, có điều sự hào hùng ấy là chuyện hằng ngày nên ông chẳng coi có gì đặc biệt, ông đã khuôn người ông vào trong khổ của sông Đà và sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Cũng như anh chàng hàng thịt heo, không có cái gì thuộc về sông Đà mà ông không biết. Ngược lại, không có cái gì ở ông mà không là hình ảnh sông Đà.

         6. Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tuỳ bút, có người đã cho như soi trong kính thiên sắc (thiên sắc kính là đồ chơi trẻ con), chỉ mấy màu mà lắc bên này thì một thế giới màu, lắc bên kia lại một thế giới màu khác. Ngòi bút ông lại không chỉ bảy màu mà trăm màu. Cứ từng câu, từng chữ đã thấy thú vị, nếu người đọc chịu chú ý đến từng câu từng chữ, và nhìn thấy  giá trị và công sức đã bỏ ra thường là đến bạc tóc như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy, ông đã từng phát biểu: “Trong năm giác quan được đem ra làm công cụ kiểm nghiệm, cặp mắt soi xuống dòng, trang giữ vai trò câm trịch trong việc nhận dạng và đánh giá từng bước đi cho bộ điệu của đoạn văn. Nhưng cặp mắt chưa dù dể lọc hết những bụi bặm vẫn còn bám cái tiếng vừa mới phát biểu của mình. Cho nên phải dừng (hai cải tai của mình nữa. Và để phát huy tột cùng hiệu này của tiếng nói mình, có khi phải dùng tới năm giác quan. Ngoài cái việc soi lắng, hình như còn phải ngửi lại, nếm lại cái mình viết ra kia, trước khi bưng ra cho người khác thưởng thức… Có khi lại như chính lòng bàn tay của mình phải sờ những góc cạnh câu viết của mình, xem lại có nên cứ gồ ghề chân chất như thế, hay là nên gọt nó tròn trĩnh đi thì nó có vào lỗ tai người tiêu thụ hơn? (Về tiếng ta). Đọc Người lái đò sông Đà thấy rõ chủ trương ấy của tác giả về viết văn.

         Từ ngữ phong phú, tìm tòi hẳn hoi, câu cú vặn vẹo đôi khi nhưng vẫn Việt Nam và nhân dân, hình ảnh ví von luôn bất ngờ, độc đáo mà chính xác, cũng không tránh những hiện thực không thanh nhã, nhưng vẫn đắc địa. Chi tiết tuỳ bút này (hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học đến cặn kẽ, cảm xúc riêng sâu chất sống và trội lên tất cả một tấm lòng yêu thương con người, đất nước, yêu cái gian khổ đã vượt qua như một bàn hùng ca, nên càng quí cái mong ước cho tương lai tươi sáng, hạnh phúc.

>> Xem thêm: Ngắm Trăng (Hồ Chí Minh) – Những bài giảng văn chọn lọc

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận