Soạn văn Bài 3: KÍ – sách Cánh Diều Ngữ Văn 6 mới

Đang tải...

BÀI 3 – KÍ

(HỒI KÍ VÀ DU KÍ)

Bài 3 (Kí) của sách giáo khoa Ngữ Văn 6 bộ Cánh Diều sẽ hướng dẫn các em nhận biết một số yếu tố hình thức, nội dung của văn bản Kí (gồm hồi kí và du kí).

YÊU CẦU CẦN ĐẠT

  • Nhận biết được một số yếu tố hình thức (người kể ngôi thứ nhất, tính xác thực, cách kể sự việc, hình thức ghi chép,…), nội dung (đề tài, chủ đề, tình cảm, cảm xúc người viết,…) của văn bản hồi kí hoặc du kí.
  • Nhận biết và vận dụng được từ đa nghĩa, từ đồng âm, từ mượn trong đọc, viết, nói và nghe.
  • Viết và kể về một kỉ niệm của bản thân.
  • Trân trọng tình mẫu tử và những kỉ niệm thời thơ ấu; yêu thiên nhiên, thích khám phá,…

KIẾN THỨC NGỮ VĂN

1. Kí

– Kí là một thể loại văn xuôi thường ghi lại sự việc và con người một cách xác thực. Hồi kí là một thể của kí dùng để ghi chép lại những sự việc, những quan sát, nhận xét và tâm trạng có thực mà tác giả đã trải qua. Du kí là một thể của kí dùng để ghi lại những điều đã chứng kiến trong một chuyến đi diễn ra chưa lâu của bản thân tới một miền đất khác.

– Tính chất xác thực của sự việc mà kí ghi chép được thể hiện qua một hoặc nhiều yếu tô’ cụ thể như thời gian (ngày, tháng, năm,…); địa điểm diễn ra sự việc; sự có mặt của người khác như người thân trong gia đình, bạn bè,… cùng tham gia vào một sự việc. Người kể trong kí thường kể theo ngôi thứ nhất.

2. Người kể ngôi thứ nhất và người kể ngôi thứ ba

– Người kể ngôi thứ nhất trong truyện hoặc kí thường xưng “tôi”, trực tiếp kể lại những gì đã chứng kiến, trải qua; trực tiếp thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm của mình,… Ví dụ: “Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen.” (Trong lòng mẹ – Nguyên Hồng).

– Người kể ngôi thứ ba là người ngoài cuộc, không tham gia câu chuyện, nhưng biết hết mọi việc, vì vậy có thể kể lại một cách tự do, linh hoạt toàn bộ những gì đã diễn ra. Ví dụ: “Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước.” (Sự tích Hồ Gươm).

3. Từ đa nghĩa, từ đồng âm, từ mượn

– Từ đa nghĩa là từ có hai nghĩa trở lên. Ví dụ, từ ăn có hơn 10 nghĩa, trong đó có các nghĩa như:

a) đưa thức ăn vào cơ thể qua miệng (ăn cơm);

b) ăn uống nhân dịp gì đó (ăn Tết);

c) máy móc, phương tiện giao thông tiếp nhận nhiên liệu (tàu ăn than);…

– Từ đồng âm là những từ có cách phát âm và viết chữ giống nhau nhưng có nghĩa khác nhau. Ví dụ, đường với nghĩa chất kết tinh có vị ngọt (ngọt như đường) đồng âm với đường có nghĩa lối đi được tạo ra để nối các nơi (đường đến trường). Trong câu, mỗi từ thường chỉ được dùng với một nghĩa. Để hiểu đúng nghĩa của từ trong câu, cần dựa vào các từ ngữ xung quanh nó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người nói, người viết có thể cố ý dùng một từ theo hai nghĩa như một cách chơi chữ. Ví dụ: Trong bài ca dao sau, tác giả đã cố ý dùng từ lợi theo hai nghĩa: “Bà già đi chợ Cầu Đông / Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng / Thầy bói gieo quẻ nói rằng / Lợi thì có lợi… nhưng răng chẳng còn”.

– Từ mượn là những từ mượn tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm,… mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị. Ví dụ:

+ Từ mượn tiếng Hán (tiếng Trung Quốc): tác phẩm, văn học, sứ giả, hoà bình,…

+ Từ mượn tiếng Pháp: (nhà) ga, xà phòng, mùi soa, pa nô, áp phích,…

+ Từ mượn tiếng Anh: mít tinh, ti vi,…

– Các từ đã được Việt hoá thì viết như từ tiếng Việt. Còn thuật ngữ khoa học thì cần viết theo nguyên dạng để dễ tra cứu khi cần thiết, ví dụ: acid, oxygen, hydro,… Mượn từ là một cách làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, để bảo vệ sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc, chỉ nên mượn từ khi thật sự cần thiết và đã mượn thì phải tìm hiểu kĩ để sử dụng cho đúng.

>> Xem thêm: Soạn bài Tự đánh giá Bài 2 (Thơ) – Ngữ Văn 6 bộ Cánh Diều

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận