Phò giá về kinh – Trần Quang Khải – Để học tốt Ngữ Văn 7

Đang tải...

Phò giá về kinh

Trần Quang Khải

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1/ Tác giả

            – Trần Quang Khải (1241-1294) là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông, được phong thượng tướng, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, đặc biệt là trong hai trận chiến thắng ở Hàm Tử và Chương Dương, ông không chỉ là một vịu tướng kiệt xuất mà còn là thi sĩ có những vần thơ “sâu xa lí thú” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí).

2/ Tác phẩm

          – Năm 1284, giặc Mông – Nguyên xâm lược nước ta. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống, chủ động rút lui sau đó tìm cách chia cắt, đánh địch ở những nơi hiểm yếu.

          – Bài thơ được làm lúc Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử, giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật có cách gieo vần tương tự như bài thất ngôn tứ tuyệt.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN

1/ Về nội dung

          – Bài thơ này được xem như là một trang kí sự bằng thơ, nóng hổi tính thời sự và đầy ắp sự kiện lịch sử của thời đại nhà Trần.

          – Với việc ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt năm 1285 là Hàm Tử và Chương Dương, toàn bài thơ là khúc khải hoàn của quân và dân ta sau chiến thắng vang dội giặc Nguyên – Mông.

          – Bài thơ cũng là niềm tâm sự sâu kín về ước vọng xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, bền vững muôn đời, kêu gọi toàn dân gắng sức trên dưới một lòng tạo dựng quốc gia giàu đẹp.

          – Bài thơ vang dội hào khí chiến thắng và tạc nên tư thế của một dân tộc anh hùng, có giá trị lịch sử như một tượng đài chiến công tráng lệ, làm sống lại những năm tháng kháng chiến hào hùng đánh thắng giặc Nguyên – Mông đồng thời thấm đẫm niềm tự hào dân tộc.

2/ Về nghệ thuật

          – Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi lớn, sức vang ngân xa. Cách nói ngắn gọn cô đúc của bài thơ này là để lưu lại hào khí oanh liệt, vang dội của dân tộc ta thời nhà Trần, đồng thời thể hiện niềm tin sắt đá vào tương lai vững bền của đất nước.

          – Ngôn ngữ thơ bình dị mà sâu sắc, cấu trúc bình đối hài hoà.

          – Giọng thơ lúc hùng tráng, hào sảng, mạnh mẽ lúc lại chuyển sang tâm tình, triết lí.

          – Với hình thức diễn đạt cô đúc, dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ đã thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.

III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN

1/ Thể thơ

          – Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, cũng có 4 câu (tứ tuyệt) nhưng mỗi câu lại chỉ có 5 chữ (ngũ ngôn) và cũng hiệp vần với nhau ở hai dòng: 2 và 4. Đây là một trong số các thể thơ Đường luật rất phổ biến trong thơ trung đại.

          – Xét về vần thơ: có thể có 3 vần gieo vào các chữ cuối câu 1, 2,4; có thể có 2 vần gieo vào chữ cuối câu 2,4.

          – Về luật bằng trắc, thơ ngũ ngôn cũng giống như thể thơ tứ tuyệt chữ 3, 5 là bằng hay trắc đều được nhưng ở các chữ 2, 4 thì phải đối thanh. Nếu chữ thứ 2 là “bằng” thì chữ thứ tư là “trắc” và ngược lại.

           Như vậy, có thể thấy bài thơ “Phò giá về kinh” tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật của thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.

Đoạt sáo Chương Dương độ

T         T        B             B       T

Cầm hổ Hàm Tử quan

B    B    B      T     B

Thái bình tu trí lực

T      B     B   T   B

Vạn cổ thử giang san.

T    T     T      B      B

          Chữ cuối cùng của câu thứ 2 là “quan” và chữ thứ tư “san” có vần “bằng”, vậy bài thơ được gieo vần bằng.

2/ Bố cục

          – Có thể chia bố cục bài thơ thành 2 câu đầu và hai câu sau.

          – Cũng như bài Sông núi nước Nam, bài thơ này thiên về biểu ý:

          – + Hai câu đầu nêu vắn tắt về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc trong cuộc chiến tranh chống quân Mông – Nguyên xâm lược

          – + Hai câu sau là lời động viên, xây dựng, phát triển đất nước trong cảnh thái bình đồng thời khẳng định sự bền vững muôn đời của đất nước.

3/ Phân tích cụ thể

a/ Hai câu thơ đầu

          – Có cấu trúc đăng đối, tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kế, đã nhắc lại hai chiến thắng liên tiếp, vang dội của quân ta trên phòng tuyến sông Hồng: Hàm Tử và Chương Dương. Ý thơ được trình bày ngắn gọn, tập trung vào các sự kiện (cướp giáo giặc, bắt quân thù), những địa điểm chủ yếu (Chương Dương, Hàm Tử).

          – Lời hữu hạn mà ý vô cùng, câu thơ càng ngắn, càng súc tích thì sức biểu hiện càng lớn. Không lời lẽ nào thuyết phục hơn những chiến công vang dội.

          – Nhà thơ không liệt kê theo trật tự trước – sau, chiến thắng Chương Dương còn nóng hổi được kể trước rồi mới đến trận Hàm Tử cách đó hai tháng. Tự bản thân các sự kiện đã đủ sức gây chấn động lòng người.

          – Hai cụm từ “đoạt sáo” (cướp giáo) và “cấm Hồ” (bắt quân Hồ) được đặt ở vị trí đầu câu thơ, như một trọng âm, một nốt nhấn trong khúc ca khải hoàn, gợi tả hai cú đánh sấm sét, liên tiếp giáng xuống đầu quân xâm lược.

          Câu thơ gợi lại không khí tiến quần như vũ bão trong hai trận quyết chiến. Lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca dận tộc, Trần Quang Khải đã đưa địa danh vào thơ, không đơn giản là những tên đất, tên vùng mà nó còn gắn với những chiến công hiển hách của dân tộc.

          – Câu thơ mang âm hưởng sức mạnh của hào khí Đông A, tư thế và chí khí của anh hùng Đại Việt.

          – Hàm súc, cảm xúc dồn nén, khí văn hùng tráng biểu thị tinh thần “Sát Thát” của tướng sĩ, câu thơ không chỉ là lời thông báo chiến thắng mà còn thể hiện niềm tự hào vô cùng to lớn của nhân dân ta thời Trần.

b/ Hai câu thơ sau

          – Nói lên những suy nghĩ của Trần Quang Khải về giang sơn Tổ quốc, về tiền đồ của dân tộc, ý thơ cũng rất cô đúc, hầu như không bộc lộ một sắc thái biểu cảm nào. Hai câu trước đã có ý nghĩa nhấn mạnh cho hai câu sau: niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời (ngàn thu) của đất nước.

          – Từ âm hưởng anh hùng ca hào sảng, giọng thơ trở nên trầm lắng như một lời tâm tình:

“Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san”

          Vì sự vững bền của giang sơn mà muôn đời phải tu trí lực, nhà thơ nhấn mạnh nhiệm vụ của vua tôi trong thời bình, xem đó là điều kiện tiên quyết và tất yếu để “Vạn cổ thử giang san”.

          – Âm Hán Việt tạo cho câu thơ sắc thái trang trọng, tác giả đặt không gian đất nước – giang san sánh ngang với cái ngàn thu – vạn cổ của thời gian vừa tạo thế đăng đối vừa khẳng định tầm vóc, sức sống trường tồn của dân tộc. Qua đó, càng nhấn mạnh quyết tâm: “Thái bình tu trí lực”. Đây là nhiệm vụ của vương hầu, tướng sĩ đền toàn dân.

Thông điệp mà nhà thơ nhắc nhở mọi người cho thấy ông có tầm chiến lược và nhãn quan sáng suốt, vì sự vững bền của giang sơn đến muôn đời mà “tu trí lực”. Cách biểu ý và biểu cảm gián tiếp mà tác động sâu xa tới tất cả mọi người, trong bất kể thời chiến hay thời bình thì toàn dân đều phải cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng giang sơn vững mạnh.

IV/ TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO

THÁI SƯ TRẦN QUANG KHẢI

            Trần Quang Khải sinh năm 1241, mất năm 1294, là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông.

            Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 – 1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1274, ông được giao giữ chức Tướng quốc Thái uý. Năm 1282, dưới triều Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng tướng Thái sư, nắm giữ quyển nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn, có nhiều công lao lớn trên chiến trường.

Trong sự nghiệp quân sự của Thượng tướng Trần Quang Khải, thì trận ông chỉ huy đánh tan quân Mông – Nguyên ở chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5-1285 “là chiến công to nhất lúc bấy giờ”, như sử sách từng ca ngợi.

            Trần Quang Khải còn là một nhà ngoại giao giỏi. Năm 1281, khi nhà Nguyên chuẩn bị xâm lược Việt Nam lẩn thứ hai, chúng cho Sài Thung đem 1.000 quân đưa bọn Trần Dĩ Ái về nước. Khi tới biên giới, quân Nguyên bị nhà Trần phục đánh. Trần Dĩ Ái bỏ chạy. Sài Thung được “rước” về Thăng Long để dùng vào kế hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với giặc. Lúc Sài Thung về Trung Quốc, Trần Quang Khải làm bài thơ tiễn tặng rất thân, nhã, đoạn kết có câu viết:

Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện,

Ân cần ác thủ tự huyên lương.

(Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,

Để ân cần nắm tay nhau hàn huyên).

            Đối với viên sứ giả hống hách của một nước sắp tràn quân sang xâm lược, thái độ Trần Quang Khải vẫn ung dung, niềm nở như vậy đó cũng thể hiện một nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của ông và con người Việt Nam thời ấy.

            Trong văn học sử Việt Nam, Trần Quang Khải là một nhà thơ có vị trí không nhỏ. Thơ ông sáng tác có tập “Lạc đạo”, nay đã thất truyền, chỉ còn lưu được một số bài. Là một vị tướng cầm quân xông pha khắp trận mạc đánh giặc, song thơ ông lại “thanh thoát, nhàn nhã”, “sâu xa, lí thú” (Phan Huy Chú). Ấy cũng là cốt cách phong thái của các vua Trần, của người Việt Nam ngàn đời nay. Hãy đọc bản dịch bài thơ “Vườn Phúc Hưng” của Trần Quang Khải để thấy rõ hơn tâm hồn ông:

Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh,

Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh.

Hết tuyết chòm mai hoa trắng xoá,

Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh.

Nắng lên mời khách pha trà nhấp,                    

Mưa lạnh sai đồng dỡ thuốc nhanh,

Báo giặc ải Nam không khói lửa,

Bên giường một giấc ngủ êm lành.

(Theo Hoàng Việt thi văn tuyển)

            Tâm hồn Trần Quang Khải vừa thoáng đạt, vừa gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị của đất nước và con người:

Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt,

Kỷ phiến nông soa bích lũng vân.

(Tiếng sáo mục đồng dưới ánh trăng bên lầu xanh,

Mấy chiếc áo tơi dưới mây trên ruộng biếc.)

(Chùa Dã Thự)

            Cuộc đời Trần Quang Khải là một cuộc đời sung mãn, khí phách dọc ngang. Vào tuổi 50, Trần Quang Khải vẫn còn viết những câu thơ đầy khát vọng anh hùng:

Linh bình đởm khí luân khuân tại,

Giải đảo đông phong phú nhất thi.

            (Chí khí dũng cảm lúc còn trẻ vẫn ngang tàng, hăng hái. Muốn quật ngã ngọn gió đông, ngâm vang một bài thơ).

            Ngoài bài “Tụng giá hoàn kinh sư”, “Lưu Gia độ” (Bến đò Lưu Gia) cũng là một bài thơ nổi tiếng của Trần Quang Khải, có thể xếp vào một trong số những bài thơ hay của thơ cổ Việt Nam:

Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,

Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.

Cựu tháp giang đình lưu thuỷ thượng,

Hoang tử cổ trùng thạch lân tiền.

Thái bình đồ chí kỉ thiên lí,

Lí đại quan hà nhị bách niên.

Thi khách trùng lai đầu phát bạch,

Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.

(Bến đò Lưu Gia cây cao ngất trời,

Xưa phò giá sang đông từng đỗ thuyên nơi đây.

Tháp củ, đình xưa dựng trên sông thu,

Đền hoang, mộ cổ trước mấy con lân đá.

Bản đồ thái bình ghi mấy ngàn dặm,

Non sông nhà Lí trải hai tràm năm.

Khách thơ nay trở lại đầu đã bạc,

Hoa mai như tuyết chiếu xuống sông trong).

            Những vần thơ trần Quang Khải để lại là những ánh hào quang, ghi dấu ấn của một sự nghiệp lớn trong cuộc đời vị Thượng tướng nhà Trần – vừa làm thơ, vừa đánh giặc.

(Theo Hà Ân – Trần Quốc Vượng, Danh nhân đất Việt)

___

Xem thêm:

Hướng dẫn phân tích, cảm thụ văn bản Sông núi nước Nam tại đây.

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận