Phân tích, bình giảng tác phẩm Nỗi Lòng (“Cảm hoài” – Đặng Dung) – Ngữ Văn 10

Đang tải...

Đặng Dung ( ? -1414, có tài liệu ghi: ? -1413 hoặc 1414), võ tướng yêu nước lừng danh thời nhà Hồ và Hậu Trần, chỉ để lại cho đời một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật là Cảm hoài nhưng đó lại là một trong những bài thơ hay nhất của văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói ông là người “sinh bất phùng thời”, lớn lên trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt. Triều nhà Hồ vừa thay triều nhà Trần (1400) thì nhà Minh đã kéo quân sang xâm lược nước ta. Hồ Quý Li vừa lên ngôi được một năm (1401), đã nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương. Vừa ở ngôi được sáu năm (1407), Hồ Hán Thương bị địch bắt đem về Trung Quốc giết chết. Cùng năm ấy, Trần Ngỗi (còn gọi là Trần Quỹ), con thứ của Trần Nghệ Tông, được một số quý tộc đón về Ninh Bình để tập hợp lực lượng dựng cờ khởi nghĩa chống Minh. Trần Ngỗi tự xưng là Giản Định Đế. Bị tướng nhà Minh là Trương Phụ phá hành dinh, Trần Ngỗi phải chạy vào Nghệ An. Đặng Tất, cha của Đặng Dung, vốn đã được cử làm Đại tri châu của Thuận Hoá cuối thời Trần, đem quân đến hội, được Giản Định Đế phong tước Quốc công. Với sự hỗ trợ đắc lực của Đặng Dung, Đặng Tất đã tiến quân đánh và bắt được tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ rồi điều quân các lộ từ Thuận Hoá đến Thanh Hoá kéo ra đánh Đông Đô. Hào kiệt và dân chúng khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó đã “đánh tan được quân Minh ở bến Bô Cô (Ninh Bình), chém được quan Minh là Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn và Đô ti Lữ Nghị, Mộc Thạnh thì chạy thoát được”. Đúng lúc cuộc khởi nghĩa phát triển thuận lợi thì Giản Định Đế nghe lời gièm pha, giết chết Đặng Tất và một tướng giỏi khác là Nguyễn Cảnh Chân, khiến cho hai người con của các vị danh tướng này là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Di rời bỏ, kéo quân về Nghệ An, tôn một người cháu của Trần Nghệ Tông là Trần Quý Khoáng lên ngôi, đổi niên hiệu là Trùng Quang. Thời gian “hai vua” song song tồn tại chưa được một năm (1409) thì Giản Định Đế cũng bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc. Dưới thời Trùng Quang, một cơ hội lớn đã từng đến với Đặng Dung : Trương Phụ cướp Nghệ An, vua Trùng Quang chạy vào Thuận Hoá. Phụ tiến đánh Thuận Hoá. Hai quân đang kịch chiến ở kênh Thái Già, đang đêm, Đặng Dung đánh úp dinh của Phụ, nhảy lên được thuyền của Phụ nhưng không biết rõ hình dạng y như thế nào để bắt sống nên Phụ đã nhảy sang thuyền nhỏ trốn thoát ! Sáng sớm hôm sau, biết rõ quân ta ít, Phụ phản kích, quân ta vỡ và Đặng Dung bị bắt đưa về Yên Kinh, trên đường đi ông đã nhảy xuống sông tự lử,…
Cảm hoài là một bài thơ rất hay nhưng không dễ hiểu và dễ thưởng thức. Để nắm được linh hồn của bài thơ, chất “bi” cũng như chất “tráng” của nó, không thể không biết những điều nói trên về bối cảnh lịch sử và thân thế tác giả. “Tinh huống bi kịch” cũng như “tâm trạng bi tráng” không chỉ thể hiện ớ hai câu đề và hai câu luận mà bàng bạc, nói đúng hơn là thấm đẫm khắp tác phẩm.
Ở câu thơ đầu, hầu như chỉ mới thấy tình huống bi kịch :
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào ?
Song, nhờ ngữ khí nghi vấn và nhất là nội dung quan tâm “thế sự”, câu thơ vẫn tuyệt không gợi lên tình điệu bi luỵ, người đọc vẫn cảm nhận được một nỗi niềm khát khao trăn trớ lớn. Mang sắc thái buồn thương rõ nét nhất là câu thơ thứ hai :
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Không buồn thương sao được khi vận nước đang ở bên bờ vực thẳm, khi bản thân nhà thơ cùng các tướng lĩnh khác đã ]ập nên những chiến công hiển hách mà không có cách nào khuếch trương được chiến quả. Nhà thơ chỉ còn cách giải toả nỗi buồn thương ấy bằng hơi men và điệu nhạc, nói một cách thoả đáng hơn, đã dùng hơi men và điệu nhạc để hình tượng hoá nỗi buồn thương và tâm trạng bi đát của mình. Có thể nêu câu hỏi : Ai “đắm trong cuộc rượu hát ca” ? “Trời đất mênh mông” hay chủ thể trữ tình ? Cũng như ở nhiều bài thơ thời trung đại khác, bằng biện pháp tỉnh lược đại từ nhân xưng ns;ôi thứ nhất, chủ thể trữ tinh ở đày đã “ẩn đi” và “đắm mình vào thế giới tưởng tượng của thơ”(1), vào “trời đất mênh mông”, nhờ đó, không chỉ “làm cho câu thơ dễ lây lan tình cảm”í2) mà còn khiến cho nỗi buồn thương của Đặng Dung mang tính phổ quát và tầm vóc vũ trụ. Câu thơ gợi cho ta liên tưởng tới hai câu thơ của Lí Bạch trong bài Uống rượu một mình dưới trăng:
Tư ca trăng bồi hồi,
Ta múa bóng rối loạn.
Lí Bạch cũng giải toả mối sầu nhân thế bằng say và cư, chỉ có điều là chủ thể trữ tình hiện lên rõ hơn.
Nếu hai câu đầu chỉ nói thời gian vật chất, cụ thể là tuổi tác không còn ủng hộ nhà thơ thì hai câu tiếp theo đề cập một điều nghiêm trọng hơn rất nhiều là thời vận. Đây cũng là vấn đề mà Hồ Chí Minh đã đề cập trong bài Học dịch kì II (Học đánh cờ, bài li;:
Thác lộ, song xa dã một dụng,
Phùng thời nhất tốt khả thành công.
(Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công.)
Tác giả không hể coi thường Phàn Khoái và Hàn Tín, những tướng tài của Hán Cao Tổ tCmg làm nghề bán thịt và câu cá, mà chí muốn nêu lên một triết lí nhằm khẳng định gián tiếp mình là một anh hùng và kẻ anh hùng đó đã không “phùng thời” mà thôi. Riêng với trường hợp đặc biệt của Đặng Dung, quả ta có thể đặt ra hàng loạt giả thiết : Giả như Giản Định Đế không đi lạc nước cờ làm bỏ phí hai danh tướng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị, giả như Đặng Dung bắt sống được Trương Phụ, giả như Đặng Dung ra đời trước một thế kỉ và được tắm mình trong hào khí Đông A, giả như Đặng Dung sớm gặp được minh chủ Lê Lợi,… !
Để hiểu thấu đáo hai câu thơ này, hãy đọc và suy ngẫm về mấy dòng sau trong
bài thơ Xem bến Bô Cô của Vũ Mộng Nguyên – nhà thơ ở trấn Kinh Bắc, đỗ tiến sĩ
cùng khoa với Nguyễn Trãi – ca ngợi chiến công hiển hách của hai cha con Đặng Dung :
... Lưu Tuấn thi trầm yên ảm đạm,
Mộc Thạnh quân tán nhật hôn hoàng.
Cônẹ danh thục dự Trùng Hưng thịnh ?
Sự nghiệp nhưng đồng Xích Bích cường.
Vận khứ nan hồi Tây Hán nhật,
Bô Cô di tích thượng hoang lương.
(… Lưu Tuấn thây chìm mây ảm đạm,
Mộc Thạnh quân tàn gió tan hoang.
So Trùng Hưng ấy công nào lớn ?
Tựa Xích Bích xưa trận vẻ vang.
Vận hội qua rồi khôn kéo lại,
Bô Cô còn đó, cảnh hoang tàn.)
(Mai Xuân Hải dịch)
Theo Vũ Mộng Nguyên, dù chiến thắng Bô Cô có thể sánh ngang với chiến thắng Xích Bích của liên minh Ngô – Thục đại phá quân Tào, bố con Đặng Dung đã lập được công lớn có thể sánh với sự nghiệp thời Trùng Hưng (niên hiệu đời Trần Nhân Tông thời kì chiến thắng quân Nguyên), vì “Vận khứ’ nên “nan hồi Tây Hán nhật” (Khó vãn hồi những ngày thịnh trị thời Tây Hán, ý nói không thể khôi phục lại cảnh thái bình thịnh trị của thời Trần).
Điều đáng quý là tuy “sinh bất phùng thời” song qua Cảm hoài, ta thấy nhà thơ đã luôn vượt lên trên số phận. Nếu trong bốn câu đầu, nhà thơ chủ yếu trình bày những khó khăn khách quan thì trong bốn câu sau, nổi bật lên là những hoài bão, khát vọng chủ quan cùng những hành động thể hiện hoài bão, khát vọng ấy : trí chủ, phụ địa trục, tẩy binh, vãn thiên hà, phục quốc thù, Long Tuyển đái nguyệt ma. Qua hình tượng hùng tráng “phù địa trạc”, có thể thấy Đặng Dung từng muốn chủ động góp phần tạo nên một bước chuyển mạnh mẽ cho thời cuộc. Ba chữ “vãn thiên hà” là mượn từ bài Tẩy binh mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ, song nội hàm có chỗ khác cơ bản. Với Đỗ Phủ, “tẩy binh mã” là kết tinh của nguyện vọng hoà bình, chấm dứt nội chiến, ở Đặng Dung, ước mơ “tẩy binh” trước hết là xuất phát từ nguyện vọng giành lại độc lập tự chủ, còn hoà bình là hệ quả đương nhiên. Thật đau xót và trớ trêu cho Đặng Dung : lí tưởng cao đẹp đó của ông đã lần lượt gửi gắm vào hai vị “minh chủ” của một triều đại trên đà suy thoái vừa bị nhà Hồ lật đổ, trong đó một vị là Giản Định Đế đã giết oan bố mình. Chính Giản Định Đế là người mà nhà thơ đã chủ động tù bỏ, từng đem quân đánh úp bắt về Nghệ An để… tôn làm Thượng hoàng vì mục tiêu tập hợp, thống nhất lực lượng chống giặc ! Chúng ta có thể hình dung nhà thơ đã dằn vặt như thế nào khi hạ hai từ “vô ỉộ”. Đúng là tâm trạng bi tráng thể hiện rõ nhất ở hai câu luận, ở đây, ước vọng, hành động đã được nâng lên tầm kích vũ trụ, phảng phất màu sắc huyền thoại, nhưng mặt khác, cọn đường “trí chủ” quả đã đi gần đến bờ tuyệt vọng. Song, “vô lộ” thật ra chỉ là một cách nói để làm nổi bật tình hình khách quan đặc biệt hiểm nghèo chứ không hề có nghĩa là “không có đường” : từ lo lắng “việc đời” (câu 1) đến “giúp chúa” (câu 5), rồi đến “trả thù nước” bằng mài sắc vũ khí (câa 7, 8), đó là diễn biến cảm xúc trữ tình, cũng là cả một quá trình phát triển, biến hoá trong nhận thức cũng như tình cảm của nhà thơ trong thực tế.
Đọc Cảm hoài, có lẽ mọi người đều thừa nhận hai câu kết là hay nhất, ở đó, hình tượng chủ thể trữ tình hiện lên sinh động và đẹp đẽ nhất, có sức lay động lòng người mạnh mẽ nhất, để lại dư vị đậm đà nhất.
Dù giải thích khác nhau, các cuốn từ điển có uy tín của Trung Quốc đều khẳng định “Long Tuyền” là tên gọi của một loại bảo kiếm. Đã là bảo kiếm thì cần gì mài, mà hơn thế, còn mài đi mài lại ? Chỉ có thể hiểu đó là sự hình tượng hoá và linh thiêng hoá quyết tâm tiêu diệt địch để báo quốc thù. Ba chữ cuối bài (đái nguyệt mà) có lẽ không nên dịch là “mài dưới bóng trăng”. Đủi nghĩa là mưng, không phải là phương vị từ chỉ vị trí. Ba chữ này gợi cho ta nhớ tới một câu thơ tả cảnh lao động rất hay của nhà thơ – ẩn sĩ Đào Tiềm :
Thần hưng lí hoang uế,
Đái nguyệt hù sừ quy.
(Sáng dậy dũi cỏ hoang,
Tối vác cuốc về mang theo cả ánh trăng.)
Ánh trăng lấp loáng theo từng nhát mài của bảo kiếm, trăng và kiếm như quấn quýt nhau, làm tăng thêm vẻ đẹp lung linh, tráng lệ của hình tượng chủ thể trữ tình. Nổi bật lên giữa không gian rộng lớn và thời gian rộng lớn. Ở ấy, hình ảnh mái tóc bạc phơ của người tráng sĩ “già trước tuổi” không hề gây nên một ấn tượng về một sự già cỗi mà càng nhân lên tác dụng cảm hoá của ý chí, quyết tâm diệt địch. Nhiều bản dịch nghĩa và dịch thơ dịch chữ tiên trong cụm từ “đầu tiên bạch” là sớm, trong khi tiên có nghĩa là trước, một từ chứa nội hàm rộng hơn. Đúng là mái tóc của người tráng sĩ có thể sớm bạc do ngày đêm lo lắng cho vận mệnh đất nước song quan trọng hơn, qua đây còn hiện lên một tình thế khẩn cấp, một tâm trạng bức xúc, một mâu thuẫn xót xa giữa cái “chưa” (chưa trả được thù nước, điều lẽ ra ác phải làm được trước) và cái “đã” (đầu đã bạc, điều lẽ ra chưa nên đến vội). Cần dịch câu thơ sao cho người đọc cảm nhận được rõ hơn ngữ khí tán thán pha nghi vấn dưới hình thức cú pháp khẳng định.
Chính nhờ câu kết mà đọc xong bài thơ, ta có cảm giác như không khí bi kịch đang dần bị xua tan, như có một sức mạnh tiềm ẩn vô song chỉ chờ cơ hội bùng phát.
Không phải ngẫu nhiên mà danh sĩ và nhà sử học, nhà văn nổi tiếng Bùi Dương Lịch (1757 – 1828) đã đánh giá Đặng Dung là một con người “gan trinh khí cả đặc biệt hơn cả xưa nay”, bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung “tình ý thơ khẳng khái, phong điệu hiên ngang”. Và dẫu chỉ qua một bài thơ, ông cũng đã quvết đoán khẳng định : “loi nghĩ rẳng tài học của ông phải sánh với bậc Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh (danh sĩ và nhà văn nổi tiếng thời Trần, học trò xuât sắc của Chu Văn An – NKP), chứ không phải ông chí có tài tướng lược chiến trận mà thôi đâu !”
Dưới đây là một bản dịch khác dể tham khảo :
Thế sự nqổn ngang tiếc dã già,
Đất trời bất tận đắm say ca.
Gặp thời đổ điêu nên công (ỉễ,
Lỡ vận anh hùiiq hận xót xa.
Phò chúa dốc lòng nâng trục đất,
Rứa cung khôn lôi kéo Ngân Hà.
Quốc thù chưa trư đầu sao bạc,
Mủi mãi gươm thiêng ánh nguyệt tà.
(Nguyễn Khắc Phi dịch Có tham khảo bản dịch ở Hoàng Việt thi vân tuyển,
NXB Văn hoá, H.,1957)

Tải về bản word >> tại đây

Xem thêm 

Phân tích, bình giảng tác phẩm Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài 43 – Nguyễn Trãi) – Ngữ Văn 10 >> tại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận