Phân tích, bình giảng tác phẩm Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài 43 – Nguyễn Trãi) – Ngữ Văn 10

Đang tải...

CẢNH NGÀY HÈ

(Bảo kính cảnh giới, bài 43 – NGUYỄN TRÃI)

Rồi hóng mát thuở ngày trường,

Hoè lục đùn đù tì tủn rợp gìươiig.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hươỉig.

Lao xao chợ cá lùng ngư phủ,

Dắng clỏi cầm ve lầu tịch dương.

Dẽ có nẹn cẩm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

1.Đặt tên Cảnh ngày hè cho bài Báo kính cảnh giới, số 43 trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng về những gương báu khuyên răn, đúng như chủ đề chung của cả chùm.

Trong khi đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý khuyên răn, nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè. Dù được viết cách náy đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luòn phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần hai mươi mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt đế đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này ? Sự tài hoa của ngòi bút chăng ? vẻ tinh tế của tâm hồn chăng ? Tầm vóc lớn lao của một tấm lòng chăng ? Có lẽ không riêng một yếu tố nào, mà là sự kết tinh cùa tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.

2.Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí “thi trung hữu hoạ”, người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh. Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo lối phân loại của hội hoạ. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.

Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc :

Rồi hóng mút thuở ngày trường,

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.

Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau. Ba chữ “Rồi hóng mát” đã gợi ra hình ảnh một ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ “thuở ngày trường” mới giàu sức gợi hơn. Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cái chênh lệch “đêm ngắn ngày dài” khá đặc trưng của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không ? Hình như còn là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn ham gánh vác việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường” ? Thời ông đang làm rường cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư ? Khỏng thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế, chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài chính cuộc của úc Trai chăng ? Mà đâu chí hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như còn ẩn trong âm vang của lời. Chang phải thê sao ? Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đôi với người quen đọc thơ thất ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa của những cảm giác trái chiều : ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ ? Có phải vì đó là một câu phá cách : lời chỉ có sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ có hai (3/3) ? Cả chuỗĩ lòi thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co giãn này có hiệu quả gì đây ? Hãy lắng nghe âm vang của nó :

Rồi hống mát  thuở ngày trường.

Chẳng phải nó tạo ra một ngữ điệu khá đặc biệt, chứa đụng những tinh điệu dường như cũng trái chiều : vừa hối thúc lại vừa thong dong ? Thong dong mà hối thúc, nhàn  mà bận tâm, chẳng phải là cái tâm thế thường trực ở úc Trai hay sao ? Có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng chính tâm thế này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu cấu trúc ngòn từ như thế trong câu khai mở ! Người nghiên cứu hiện đại có thể gọi đó ỉà sự tham gia sáng tạo của vô thức chăng ?

Kết hợp câu đề thứ hai với hai câu thực, ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá :

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu xanh lục lá hoè thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khối biếc, tán hoè thì “rợp giương” như cử lọng giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập loè dậy lên vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức dỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà. Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên bay toả không gian. Mật độ dày của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn”,… đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh tại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi sắc độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh. Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã bắt được một nhịp vận hành vô hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này : thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá – hoa – hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái nhịp độ khẩn trương : “Thạch lựu hiên còn phun thức đó – Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gơi ra được không khí các tạo vật đang đua nhau phô sắc khoe hương.

Có lẽ cần dừng đôi chút về câu chữ ỏ’ đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác nhau về câu thơ “Hồng liên trì dã… mùi hương” và do đó có hai cách hiểu khác nhau. Một bản chép là “tin”, nshĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là “tiễn”, nghĩa là đưa toả mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là cú pháp. Cặp phó từ “còn”… trong cặp câu thực biểu hiện quan hệ cú pháp nào ? Không ít người chỉ thấy chúng biếu đạt quan hệ suy giảm : “đang còn”:., “đã hết”. Từ đó đã dẫn tới việc hiểu nchĩa của chúng ỉà “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ – Hồnq liên trì đã tịnh (hết) mủi hương”. Hiệu thế có phù hợp không ? Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn lự Nôm, có lẽ cần phải có thêm căn cứ về vàn bản thơ và các quy luật rmhệ thuật nữa. Trong nghệ thuật, có quy luật : tiểu tiết phục tùng tổng thể, tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng chung của thi phẩm là về sự sung mãn loàn thịnh của ngày hè. Cho nên các hình ảnh (cả thiên nhiên lẫn đời sống) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết đều phải góp mình làm nội bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tịn” lì có lí. Nó nói cái suy. Tổng thể nói tịnh, tiểu tiết sao lại nói suy ? Rõ ràng, “tịn” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái thịnh, mới cộng hướng được với vẻ toàn thịnh ấy. về quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ còn… đã… dâu chỉ nói về loại quan hệ suy giảm : dưng còn… đã hết, mà nó cồn dùns để chỉ loại quan hệ tăng tiến : đang còn… đã thêm. Trong tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. Bởi vậy, nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là : ”Thạch lựu tịnh còn phun thức đỏ – Hồng liên trì đã tiễn (đưa / toả) mùi hương”. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, ganh đua nhau cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.

Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sống rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh :

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lưu tịch dương.

Nghĩ cũng thú vị, chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc đương đông buổi chợ là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ní»ư phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch. Nhưng khônơ khí ấy ở đây đã bị xua tan bới nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mờ, một điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng nơi phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lóp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã tháu tóm được toàn cảnh cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa. Trước, vẽ thiên nhicn thì từ cao xuống thấp ; giờ, vẽ đời sống lại trải từ thấp đến cao, lừ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt nhĩme âm thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.

Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cánh. Phải, cảnh tượng ấy đâu chí nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó cồn là sự phấn chấn của một tấm lòne thiết tha với đời sống. Nhưng, ta có dịp được hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ :

Dẽ cỏ ngu cầm đùn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Giá chi có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam phong cầu cho dâ giàu đủ khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta ve lòng chí của Úc Trai. Người dám mang trong mình ước nguyện kia phái là ai vậy ? Một thi sĩ đơn thuần thỏi sao ? Mộl công thần khanh tướng thôi sao ? Những kẻ ấy dám mơ đến việc cám trong tay cây đàn của một quân vương sao ? Không. Trong đời,  phận vị Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trons thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Điều này có gì là không chính đáng đàu ! Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn. Thêm nữa, Nguyễn Trãi muốn gảy đàn chỉ đe ca nsợi cuộc sống phong túc hiện thời thôi sao ? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhỡn tiền kia quả là hưng thịnh nhưng nó vẫn chưa khiến ông thoả nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong đê cầu mong cho dân tình phong lúc hơn nữa. Ông mong muốn một cuộc sống thực sự thanh bình và no đủ, nghĩa là một thiên hạ thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải đúc nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngắn lại, như để ghim lại điều đau đáu của cõi lòng. Đó chẳng phải là khát khao Nghiêu Thuấn của con người suốt đời “âu việc nước” hay sao ?

Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hoà điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng đó ư ?

Tải về bản word >> tại đây

Xem thêm 

Phân tích, bình giảng tác phẩm Vận nước (Quốc tộ – Pháp Thuận) – Ngữ Văn 10 >> tại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận