Phân tích bài “Việt Bắc”- (P6) – Tài liệu ôn thi THPTQG Văn 12

Đang tải...

VIỆT BẮC

Tố Hữu

4. 10 câu thơ tiếp theo: Bức tranh tứ bình về hoa và người Việt Bắc.

– Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời cách mạng gian khó nhưng hào hùng, sôi nối khiến khi đi xa làm lòng ta sao khỏi xuyến xao, bồi hồi. Và cứ thế, sợi nhớ, sợi thương luôn đan cài vào nhau như tiếng gọi “mình” – “ta” của đôi lứa yêu nhau.

– Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Theo dòng hoài niệm về những năm tháng kháng chiến, tác giả đã dành cho Việt Bắc những lời thơ ngọt ngào như tiếng nhạc ngân nga với cảnh và người đầy ắp những kỉ niệm ân tình không bao giờ quên được:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đố vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

– Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”

– Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời. Điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết, nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp huyền thoại của “hoa” và “người”. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là người dân Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa va người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm để tạo nên cái riêng biệt, độc đáo cho vùng đất Việt Bắc. Nếu ai tinh ý sẽ nhận ra rằng trong bốn cặp thơ lục bát còn lại thì câu sáu chữ dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tấm chứ dành cho nhớ người.

Tám câu thơ tạo thành bộ tranh tứ bình khi rực rỡ, chối chang, khi thơ mộng, trữ tình. Cảnh và người trong mỗi câu thơ lại mang sắc thái riêng biệt, tạo ấn tượng mạnh và không thể nhầm lẫn.

*Bức tranh mùa đông.

– Nhắc đến mùa đông, phải chăng ai ai cũng hình dung ra cái thời thiết lạnh thấu da, thấu thịt, cái không khí ậm đạm, âm u của những ngày mưa phùn, gió bấc. Nhưng khi vào trong thơ Tố Hữu, với một trái tim nhạy cảm thì mùa đông lại mang một sắc nét rất khác lạ 4 mùa đông bỗng nhiên ấm áp đến lạ thường:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thẳt lưng.”

– Bằng vài nét chấm phá, Tố Hữu đã điểm xuyết trên nền màu xanh mênh mông, bao la, bát ngát của núi rừng Việt Bắc là màu đỏ của hoa chuối đang lung linh khoe sắc, tỏa sáng dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa nhìn lại, bông hoa chuối như những bó đuốc thắp sáng rực rỡ tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc đối vừa đối lập nhưng lại hài hòa, vừa cổ điển lại vừa hiện đại. Màu đỏ tươi – gam màu nóng bỏng của bông hoa chuối noi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và mang trong mình một sức sống tiềm ẩn, xua tan đi cái lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng mùa đông.

– Câu thơ làm ta liên tưởng tới màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”

(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)

– Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo, hoang sơ bỏl màu đỏ của hoa chuối như đang bừng cháy giữa màu xanh của núi rừng, sắc đỏ của hoa chuối rừng như thắp lên niêm tin, hi vọng và trở thành điếm nhớ lung linh trong lòng người về xuôi.

– Cùng hiện lên với vẻ đẹp của sắc màu hoa lá là hình ảnh con người vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai đế nuôi sống gia đình và cung cấp cho bộ đội kháng chiến:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”

– Nếu trong thơ bà Huyện Thanh Quan, con người xuất hiện nhỏ bé, mờ nhạt như một đường viền cho thiên nhiên:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

(Qua đèo ngang – Huyện Thanh Quan)

– Thì trong thơ Tố,Hữu con người hiện ra ở tầm vóc và tư thế làm chủ nơi núi rừng rộng lớn. Trước thiên nhiên bao la, con người đứng trên đỉnh đèo cao. Họ dường như càng trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn. Tố Hữu không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một khoảnh khắc rực sáng nhất. Đó là ánh nắng mặt trời chiếu vào lưỡi dao để ngang lưng người dân tạo sự phản quang lấp lánh. Câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một trung tâm của ánh sáng , xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Câu thơ thể hiện vẻ đẹp khỏe khoắn, vững chãi, tự tin của con người. Người lao động đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng tự do. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc như trong câu thơ:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta.”

-Vẻ đẹp của người dân miền núi Việt Bắc gợi cho ta liên tưởng tới hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ từng xuất hiện trong thơ Tố Hữu:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo.”

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

– Ở bức tranh thứ nhất, người lao động là tâm điểm tỏa sáng và tạo sức sống cho mùa đông Việt Bắc, làm tăng thêm sự cảm phục, yêu mến trong lòng người ra đi.

*Bức tranh mùa xuân.

– Đông qua đi xuân lại đến, đó là quy luật tuần hoàn của thời gian. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang chuyển mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân của Việt Bắc ngập tràn sắc trắng ở khắp núi rừng bởi hoa mơ tinh khôi, tươi mát:

“Ngày xuân mơ nở trắng rùng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

– Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trăng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo cú pháp đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc. Màu trắng của hoa mơ dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá và làm bừng sáng khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.

– Đây không phải lần đầu tiên Tố Hữu viết về sắc trắng ấy. Năm 1941, Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong sắc trắng hoa mơ:

“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.

Bác về… im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngấn ngơ…”

(Theo chân Bác – Tố Hữu)

– Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hàng ngày. Động từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên vẻ đẹp cần mẫn, nhẫn nại, khéo léo, tài hoa của người dân, đó cũng là phẩm chất của con người Việt Bắc. Bao nhiêu yêu thương đều được người dân Việt Bắc gửi vào hành động “chuốt từng sợi giang” đế đem tới cho đời vẻ đẹp duyên dáng, tinh tế qua những chiếc nón mỏng manh mà đủ sức che mưa, che nắng. Nếu không thực sự gắn bó với Việt Bắc thì làm sao người ra đi phát hiện được những nét đáng yêu, đáng nhớ như thế đế khắc ghi trong lòng.

*Bức tranh mùa hè.

– Trong niềm thương nhớ của tác giả không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuôi, màu trắng tinh khôi của hoa mơ mà còn có cả màu vàng óng ả của những rừng phách ngày hè:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

– Thời điểm ve kêu là thời điểm rừng phách đố vàng. “Đố” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đỏ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm trong quá khứ nên lung linh màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu lả vẻ đẹp riêng của từng màu mà còn có biệt tài trong việc miêu tả sự vận động, thay đỏi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động. Tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Tiếng nhạc ve làm cho không gian sống động, rộn ràng .

-Ta chợt liên tưởng tới câu thơ của Khương Hữu Dụng:

“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng.”

– Một người nghe tiếng ve ngân mà tưởng như âm thanh đó đổ một sắc vàng rực lên nhũng rừng phách. Một người nghe tiếng chim kêu mà ngỡ rằng âm thanh đó làm bùng sáng cả núi rừng. Đây quả là những liên tưởng độc đáo, tài hoa.

– Nếu trước đó Xuân Diệu từng viết:

“Đố trời xanh ngọc qua muôn lá.”

– Thì từ “đổ” trong thơ Tố Hữu được dùng khéo léo để miêu tả sự chuyển đổi sắc màu đột ngột, nhanh chóng – đó là màu vàng tươi mới đầy sức sống.

– Hiện lên trong thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm đang cần mẫn đi hái từng búp măng rừng đế chuẩn bị cho bữa ăn hàng ngày và cung cấp cho bộ đội kháng chiến.

– Cách gọi “em gái” thật thân thương, trìu mến trong mối quan hệ gia đình. Cách gieo vần “gái”, “hái” và điệp phụ âm “măng một mình” khiến nhịp điệu câu thơ trở nên quyến luyến. Dù chỉ có một mình đứng giữa núi rừng bao la nhưng hình ảnh thơ không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng người phụ nữ trong thơ xưa mà vẫn gần gũi, thân thiết, toát lên vẻ đẹp chịu thương, chịu khó của cô gái vùng cao. Đang sau đó ấn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

*Bức tranh mùa thu.

– Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

– Cảnh trung thu hiện lên với trăng thanh gió mát thật thơ mộng. Trăng là biếu tượng cho vẻ đẹp thanh cao , thanh khiết. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do , khát vọng hòa bình của dân tộc rọi sáng lên tùng bản làng Việt Bắc. Đe có ánh trăng ấy, chúng ta đã phải đi qua bao nhiêu gian khổ, hi sinh. Vì vậy, câu thơ của Tố Hữu không đơn giản chỉ là tả cảnh trăng rừng mà còn gợi ra biết bao công lao tình nghĩa khiến nỗi nhớ thương càng thêm sâu sắc.

– Ánh trăng không chỉ xuất hiện trong thơ Tố Hữu mà còn đi vào thơ Nguyễn Duy , Hồ Chí Minh như một biếu tượng cao đẹp :

“ Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa số

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

(Ngắm trăng – Hồ Chí Minh)

Hoặc:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cố thụ bóng lồng hoa.”

(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)

Hay:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”

(Rằm tháng riêng – Hồ Chí Minh)

Hoặc:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận chiến khu báo về.”

( Tin thắng trận – Hồ Chí Minh)

– Hay ánh trăng nơi rừng núi hoang vu trong bài thơ Chính Hữu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

(Đồng chí – Chính Hữu)

– Hoặc ánh trăng thanh binh nơi làng quê qua con mắt yêu đời của Nguyễn Duy:

“Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ.”

(Ánh trăng – Nguyễn Duy)

– Nếu ở bức tranh mùa đông, xuân, hạ bên trên, nhà thơ luôn hướng nỗi nhớ tới nhũng con người lao động cụ thế thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tranh tứ bình có cụm từ “Nhớ ai” khiến hình ảnh con người như nhòa đi đế nỗi nhớ trở nên sâu đậm hơn. Nhớ tất cả những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nhân hậu, nghĩa tình. Tiếng hát vang lên ở cuối đoạn thơ giống như một khúc vĩ thanh truyền đi thông điệp vê lòng thủy chung ân nghĩa của con người.

– Nhà thơ Xuân Diệu khi đọc đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của hoa và người Việt Bắc đã tinh tế nhận ra: “Không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngòi bút nở nhiều một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người.”

– Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh nhiên nhiên tuyệt mĩ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng “tiếng hát ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung dộng sâu xa của tình yêu quê hương, đất nước.

-Với ngọn bút tài hoa, Tố Hữu đã vẽ lên bốn bức tranh đặc sắc như chính cuộc sống của vùng đất chiến khu. Có thể thấy nỗi nhớ của người ra đi lặp đi lặp lại như nhũng sợi thương, sợi mến giăng mắc khắp đoạn thơ đế dệt nên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp. Với những nét chấm phá đơn sơ, giản dị, cổ điển kết hợp hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được sự giao hòa giữa cảnh và người Việt Bắc, làm cho bức tranh tứ mùa trở nên gần gũi, thân quen và có hồn hơn. Với vẻ đẹp hài hòa của cảnh, tươi thắm của tình, cách xưng hô “mình” – “ta” truyền thống mà hiện đại đã tạo nên nhạc điệu du dương, trầm lắng giống như một khúc hát ru, hát về những kỉ niệm không thế nào quên. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến, thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Xem thêm: Phân tích bài “Việt Bắc”- (P7) – Tài liệu ôn thi THPTQG Văn 12 tại đây. 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận