Những câu hát châm biếm – Đọc hiểu văn bản – Tư liệu Ngữ Văn 7

Đang tải...

Những câu hát châm biếm – Tư liệu Ngữ Văn 7

NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

TÌM HIỂU KHÁI NIỆM

– Châm biếm

Một dạng của văn học trào phúng, dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay hiện tượng khác trong xã hội. Châm biếm gắn liền với tình cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ phải, tình yêu con người.

Châm biếm khác với u-mua, hài hước ở mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật.

Về phương diện xã hội, phần lớn những tác phẩm châm biếm thường chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân, của tư tưởng tiến bộ trong lịch sử. Các nhà văn nhà thơ trào phúng thường có tài châm biếm và đã viết những tác phẩm châm biếm có giá trị đả kích bọn thống trị tàn bạo, hà khắc, bọn xâm lược, và bè lũ phản bội, bán nước cầu vinh…

(Lê Bá Hán – Trần Đình sử – Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), Sđd)

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

1. Người nông dân còn mượn hình ảnh cái cò để miêu tả cảnh ngồi không và biếng nhác của địa chủ, còn họ là người làm ra thóc lúa thì lại phải lặn lội thân cò :

Cái cò lặn lội bờ ao,

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng ?

Chú tôi hay tửu hay tăm,

Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

Ngày thì ước những ngày mưa,

Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.

Chúng ta đã biết cái chế độ con nuôi thời phong kiến. Con nuôi chăng qua chỉ là người ở, mà lại là người ở không công. Bọn địa chủ cho họ gọi chúng là thầy, là bác, là chú, để chúng càng dễ bóc lột họ. Lặn lội ở bờ ao như cái cò và thấy người thôn nữ xinh đẹp đi qua, anh nông dân đã cất tiếng bỡn cợt đầy giọng dí dỏm, châm biếm, nhằm chính vào kẻ mà họ oán ghét. Anh đưa ra hình ảnh một gã rượu chè be bét, nghiện trà đặc, thích ngủ trưa, anh ướm hỏi chị thôn nữ và trong thâm tâm anh, trong sự xét nhận tế nhị của anh, anh đã biết thừa là cô yếm đào chẳng ưa nào. Mà chẳng ưa lấy một kẻ như thế, thì cô yếm đào lấy ai ? Có lẽ nên lấy cái anh lặn lội thân cò tuy vất vả, lam lũ, nhưng hay lam hay làm, trong trắng như cái cò lặn lội bờ ao, và nhiều lúc lại bay cao, bay bổng. Tình duyên ấy mới là xứng đáng.

Những câu ca dao trên đây rất kín đáo. Tác giả không đả động gì đến mình là người lao động và cũng không hề nói đến giá trị của lao động mà người nông dân đã biết rõ, nhưng chúng ta đều thấy anh nông dân ướm hỏi cô yếm đào, chủ yếu là vì mình mà ướm hỏi.

( Theo Vũ Ngọc Phan, Ca dao dân ca – đẹp và hay, Sđd)

2. Nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca lật tẩy bản chất của bọn “nói dựa” – thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Các khẳng định của thầy bói ngụy biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khắng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết.

Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

3. Trong bài ca, mỗi con vật tượng trưng cho một loại người : con cò tượng trưng cho người nông dân, cà cuống tượng trưng cho những kẻ có quyền bính, chim ri và chào mào tượng trưng cho đám lính lệ, chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới chế độ phong kiến. Điều thú vị là tác giả cho tất cả các con vật đó “vào vai”, mỗi con một hành động để thể hiện một nét tính cách hay bản chất của mình, tự bộc lộ mình – biến đám ma của con cò thành dịp để chè chén, kiếm chác.

Bài ca có tính chất ngụ ngôn rõ rệt, tác giả dân gian đã mượn loài vật để phê phán hủ tục ma chay.

4. Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt :

Cậu cai nón dấu lồng gà,

Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

Hai câu là hai đinh nghĩa, đồng thời là hai “dấu hiệu” nhận biết một con người : thứ nhất, cậu cai = nón dâu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai : ngón tay đeo nhẫn – gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng cậu cai đi, trong hình dung chỉ còn chiếc nón dâu lông gà (quyền lực) và ngón tay đeo nhẫn (khoe của) có vẻ rất trai lơ !

Hai câu tiếp theo :

Ba năm được một chuyến sai

Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.

Sự đối lập về số lượng ở đây có tính chất gây cười. Té ra cậu cai nhàn thật ! Cơ hội ba năm mới có một lần ấy, với một người “quyền lực” và “giàu sang” thế mà cả ảo ngắn lẫn quần dài đều… khồng có ! Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra một cách châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Bằng những nét phác hoạ điểm xuyết, bài ca làm nổi bật chân dung và bản chất của cậu cai – người giữ chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến.

VĂN BẢN ĐỌC THÊM

–      Cái cò là cái cò kì

Ăn cơm nhà dì uống nước nhà cô

        Đậm nằm thì ngáy o o

Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà…

–      Bói cho một quẻ trong nhà

Con heo bốn cẳng, con gà hai chân.

–      Con cò mắc dò mà chết

Mẹ con cái diệc giã gạo lầm chay

Bồ câu mở sách xem ngày làm ma

        Cà cuống uống rượu la đà

Con cua trong lỗ bò ra chia phần

        Chào mào mà đánh trống quân

Chim chích ở trần vác mõ đi rao

        Tôi trình ông xã ông thôn

Ông uống chén rượu, ông chôn con cò.

–       Cậu cai buông áo em ra

Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.

– Gợi dẫn

Hãy phân tích tính chất châm biếm trong mỗi câu ca dao trên.

Tải về file word  >>  tại đây

>> Xem thêm:

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận