Đọc hiểu văn bản: Phò giá về kinh – Tư liệu Ngữ Văn 7

Đang tải...

BÀI 5

PHÒ GIÁ VỀ KINH

(Tụng giá hoàn kinh sư)

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

Tụng giá hoàn kinh sư thực chất là bài ca khải hoàn, nó được sáng tác khi Trần Quang Khải, vị Thượng tướng có vai trò nhất nhì trong triều đình, cũng như trong cuộc cầm quân chồng giặc Nguyên xâm lược, hộ giá hai vua trở về kinh đô ngày 6 tháng sáu âm lịch năm 1285. Hai câu đầu bài thơ tác giả nhắc đến hai chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với cuộc kháng chiến (Chương Dương, Hàm Tử), mà một trong hai trận ấy tác giả là người trực tiếp chỉ huy. Về thời điểm của cuộc chiến, Đại Việt sử kí toàn thư, Quyển 5 (Bẳn dịch, tập II, tr. 55 – 57) ghi như sau :

“Mùa hạ, tháng Tư, vua sai bọn Chiêu Thành Vương (không rõ tên), Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem binh nhẹ đón đánh ở bến Tây Kết. Quan quân cùng với quân Nguyên đánh nhau ở Hàm Tử quan. Các quân đều có mặt ở đấy, duy quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật có người nước Tống, mặc áo kiểu Tống, cầm cung tên để đánh… Quân Nguyên thấy đều kinh hãi, bảo nhau là có người Tống sang đánh giúp, vì thế thua chạy. Trước kia nhà Tống mất nước, những người ấy sang quy phục nước ta, Nhật Duật đã dung nạp”.

“Tháng Năm, ngày 3, hai vua đánh giặc ở Trường Yên, chém đầu cắt tai không kể xiết. Ngày 7, tin do thám báo rằng : Toa Đô từ Thanh Hoá kéo quân ra. Ngày 10, có người từ chỗ giặc trốn đến quân ngự dinh tâu báo rằng : Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp với em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh được giặc ở xứ Kinh thành, Chương Dương, quân giặc tan vỡ. Bọn Thái tử Thoát Hoan, Bình Chương Alạt chạy qua sông Lô… Ngày 20, hai vua tiến đóng ở bến Đại Mang. Tổng quản nhà Nguyên là Trương Hiên đầu hàng. Ngày hôm ấy đánh bại giặc ở Tây Kết, quân giặc chết và bị thương rất nhiều, chém được đầu Nguyên soái Toa Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua đuổi theo không kịp, bắt được dư đảng hơn 5 vạn người đem về. Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền lớn vượt biển trốn thoát”…

“Tháng sáu, ngày 6, hai vua trở về Kinh sư. Thượng tướng là Quang Khải làm thơ rằng : Đoạt sáo Chương Dương độ…”.

Như vậy, Trần Quang Khải và hai vua là những người thắng trận – có thể hiểu với cả ý nghĩa cụ thể của từ này – từ chiến trường trở về. Họ còn chưa kịp nghỉ ngơi, chưa kịp tổng kết cuộc chiến, và có thể nói cũng chưa kịp rũ áo chiến bào, chưa kịp “tẩy giáp binh”. Nhịp độ diễn tiến của chiến trận dồn dập, sôi động, quyết liệt để lại âm hưởng trong nhịp thơ nhanh, gấp (chỉ có 10 chữ trong hai câu thơ liền nhau) với ngôn ngữ hàm súc, rắn rỏi, các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát (đoạt: cướp lấy ; cầm : bắt), chuyên trực tiếp tới đối tượng (đoạt sáo, cầm Hồ). Bài thơ của Trần Quang Khải nóng hổi tính thời sự, tuy nhiên tác giả lại không dừng lâu ở những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng mặc dù ta có thê nghe, có thê cảm thấy toát lên ở đây niềm tự hào được dồn nén trong cách kể rất “khách quan”, “trung tính”. Trần Quang Khải lướt qua những sự kiện của cuộc chiến rất nhanh và với tinh thần trách nhiệm, ông nhấn mạnh nhiệm vụ thời bình : “Thái bình cần phải dốc hết sức lực” (Thái bình tu trí lực). Đó là điều kiện tiên quyết và tất yếu để “non sông này vững bền muôn thuở”.

Bài ca khải hoàn của Trần Quang Khải bộc lộ niềm sảng khoái của người chiến thắng, thể hiện hào khí Đông A của thời đại nhưng lại không mang niềm vui an lạc. Vị chiến tướng chưa kịp nghỉ ngơi đã lo đến nhiệm vụ trước mắt, cũng là kế sách lâu dài cho vương triều, cho đất nước. Bài thơ chỉ có 20 chữ nhưng đã vừa bố cáo được thành quả thời kì chiến tranh giữ nước lại vừa đặt ra nhiệm vụ trong hoà bình. Trần Quang Khải là một chiến tướng đồng thời là một nhà chiến lược. Chính ở bài thơ này ông đã bộc lộ tính kiên nghị, mạnh mẽ và tầm nhìn xa rộng của một nhân cách lớn. Trần Thánh Tông đã không nhầm khi giao vận mệnh vương triều, non sông xã tắc vào tay ông và Trần Quốc Tuấn.

(Theo Trần Thị Băng Thanh, Giảng văn văn học Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)

VĂN BẢN ĐỌC THÊM

TỎ LÒNG (Thuật hoài)

Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng khí át sao Ngưu. 

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Phạm Ngũ Lão, Trần Trọng Kim dịch)

LÊN NÚI (Đăng sơn)

Chống gậy lên non xem trận địa

Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây

Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.

(Hồ Chí Minh, Xuân Diệu dịch)

– Gợi dẫn

Hai bài thơ trên được sáng tác ở hai thời đại khác nhau, nhưng đều có chung một cảm hứng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải. Đó là cảm hứng gì ?

Tải về file word  >>  tại đây

>> Xem thêm:

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận