Đề Ôn Tập Học Sinh Giỏi Ngữ Văn 7 Có Đáp Án Chi Tiết

Đang tải...

Bộ đề tham khảo ôn tập học sinh giỏi Ngữ Văn 7 có đáp án chi tiết giúp cho các bạn học sinh ôn tập và củng cố kiến thức Ngữ Văn lớp 7 hiệu quả nhất. Hãy cùng tham khảo bộ đề ôn tập học sinh giỏi Ngữ Văn 7 sau đây. 

BỘ ĐỀ THAM KHẢO ÔN TẬP HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 7

ĐỀ BÀI 

Phần I. Đọc – hiểu: (4 điểm)

              MẸ VÀ QUẢ
                                                         Nguyễn Khoa Điềm

“…Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn

Còn những bí và bầu thì lớn xuống

Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn

Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.

Và chúng tôi, một thứ quả trên đời

Bảy mươi tuổi mẹ vẫn chờ được hái

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi

Mình vẫn còn là một thứ quả non xanh?”

1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là gì? (1điểm)

2. Nêu nội dung của đoạn thơ. (1điểm)

3. Chỉ ra biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh được sử dụng trong bài thơ trên? Tác dụng của các biện pháp đó? ( 2 điểm)

Phần II. Làm văn (16 điểm)     

Câu 1: (6.0 điểm)

Đọc mẩu chuyện sau:

“Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:

– Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là…

   Người thầy giáo già hoảng hốt:

– Thưa ngài, ngài là…

– Thưa thầy, với thầy con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…”

(Quà tặng cuộc sống)

  Bằng một bài văn ngắn, hãy nêu suy nghĩ của em về những điều tác giả muốn gửi gắm qua câu chuyện trên.

Câu 2: (10 điểm)

Đánh giá về ca dao, có ý kiến cho rằng:

“Ca ngợi tình cảm gia đình đằm thắm, tình yêu quê hương đất nước thiết tha là một nội dung đặc sắc của ca dao”.

     Qua các bài ca dao đã học và những hiểu biết của em về ca dao, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

 

ĐÁP ÁN CHI TIẾT ĐỀ ÔN TẬP HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 7

PHẦN I

1. Biểu cảm. 

2. Thể hiện lòng biết ơn của người con đối với mẹ.

3.

– So sánh: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
                Còn những bí và bầu thì lớn xuống
– Ẩn dụ: Quả xanh non – sự dại dột chưa trưởng thành của người con.

– Tác dụng:

+Làm nổi bật công lao to lớn của mẹ, sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào.

Giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt thơm.

+ Lay thức tâm hồn con người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn sinh thành của mỗi con người chúng ta với mẹ…

PHẦN II

Câu 1.

1. Về kĩ năng

– Viết đúng thể thức của một bài văn ngắn, đúng kiểu bài nghị luận xã hội.

– Bố cục 3 phần cân đối, lập luận chặt chẽ; luận điểm rõ ràng.

– Diễn đạt lưu loát; dẫn chứng xác thực; liên hệ mở rộng tốt.

– Trình bày sạch đẹp; ít sai lỗi câu, từ, chính tả.

2. Về kiến thức

Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách nhưng cần làm rõ được các yêu cầu cơ bản sau:

+ Tóm tắt nội dung câu chuyện:

– Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa người học tò cũ và thầy giáo già.

– Câu chuyện thể hiện thái độ kính trọng, biết ơn thầy giáo cũ của một danh tướng.

+ Ý nghĩa câu chuyện

– Ca ngợi lòng biết ơn vô hạn của danh tướng với thầy giáo cũ.

Người học trò tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng (một vị danh tướng) nhưng vẫn luôn nhớ tới những người thầy đã dạy dỗ, giáo dục mình nên người. Việc người học trò trở về thăm trường, gặp thầy giáo cũ và có những cách ứng xử rất khiêm tốn và đúng mực, thể hiện thái độ kính trọng và lòng biết ơn của người học trò đối với thầy giáo mình. Ngay cả khi người thầy giáo già gọi vị tướng là ngài thì ông vẫn không hề thay đổi cách xưng hô (con – thầy).

– Đem đến lời nhắc nhở với những kẻ vong ân bội nghĩa trong xã hội.

+ Bài học cho bản thân về lòng biết ơn.

– Cần biết ơn và quí trọng thầy cô trong bất cứ hoàn cảnh nào. Dù sau này trở thành người tài giỏi, địa vị cao sang cũng luôn nhớ và kính trọng thầy cô giáo, những người đã dạy dỗ em nên người.

– Biết ơn thầy cô không phải đem quà cáp tặng thầy cô mà chỉ cần những cử chỉ lời nói lễ phép, kính trọng. Đó là món quà quí giá nhất.

Giám khảo cân nhắc các mức thang điểm trên cho điểm phù hợp.

Câu 2.

1) Yêu cầu:

a, Về hình thức: Học sinh hiểu đúng yêu cầu của đề bài, biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí, diễn đạt tốt, trôi chảy, có cảm xúc.

b, Về nội dung:

Học sinh trình bày trên cơ sở hiểu biết về ý nghĩa của ca dao, làm nổi bật được: “Tình cảm gia đình đằm thắm, tình yêu quê hương đất nước” trong ca dao.

A. Mở bài : Dẫn dắt vấn đề – Trích dẫn ý kiến.

B. Thân bài :

* Giải thích:

Nước ta có một nền văn hóa nước lâu đời. Cuộc sống của nhân dân luôn gắn liền với làng quê, cây đa, bến nước, con đò và đồng quê thẳng cánh cò bay. Từ khi cất tiếng khóc chào đời người nông dân xưa đã gắn bó với làng quê và với họ ca dao là những câu hát dân gian phản ánh tâm tư, tình cảm trong đời sống , trong lao động, là “ bài ca sinh ra từ trái tim.” Qua ca dao, họ gửi trọn tình yêu cho những người thân ruột thịt của mình, cho ruộng đồng, lũy tre, cho quê hương, đất nước.

Luận điểm 1: Trước hết ca dao là hát yêu thương về tình cảm gia đình.

* Tình cảm của con cháu đối với ông bà tổ tiên.

“Ngó lên nuộc lạt mái nhà

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”

     Hành động ngó lên bày tỏ sự tôn kính, ngưỡng vọng khi nhớ về ông bà, tổ tiên. Tác giả dân gian đã sử dụng thủ pháp so sánh rất quen thuộc trong ca dao:so sánh “nuộc lạt” một sự vật bình thường, gần gũi, gắn với nếp nhà xưa, với ngôi nhà kỉ niệm của bao đời, với hình ảnh của ông bà, làm cho nỗi nhíơ ông bà da diết, trĩu nặng, không một phút nào nguôi, đồng thời cho thấy lòng biết ơn sâu nặng đối với ông bà tổ tiên. Bài ca dao thay cho lời tưởng niệm tổ tiên của những người con, người cháu hiếu thảo đối với ông bà, nguồn cội của mình…

* Tình mẫu tử sâu nặng, tình cha con thắm thiết

                                     “ Công cha như núi ngất trời,

                             Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

                                   Núi cao biển rộng mênh mông,

                             Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.”

     Bài ca dao là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon lành, đồng thời nhắc nhở công lao của cha mẹ và bổn phận làm con. Cái hay trong cách nói: người mẹ so sánh với công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ với con cao như núi ngất trời, rộng như nước biển Đông. Công cha, nghĩa mẹ vốn là những khái niệm trừu tượng được so sánh với những sự vật  cụ thể: núi cao, biển rộng. Những sự vật này biểu tượng cho sự to lớn, cao rộng, vĩnh hằng của thiên nhiên. Chỉ có những hình ảnh to lớn, cao rộng, không cùng, vĩnh hằng ấy mới diễn được công ơn sinh thành nuối nấng của cha mẹ. Núi cao biển rộng không thể đo được cũng như công lao cha mẹ đối với con cái không thể nào tính được, đo đếm được. Cách dùng thành ngữ “cù lao chín chữ” kín đáo nói về bao hi sinh gian nan, vất vả, để nuôi con khôn lớn của cha mẹ càng nhấn mạnh hơn công lao sinh thành ấy. Bốn tiếng cuối cùng của câu thơ như một lời gọi tha thiết nhắc nhở thái độ, hành động của con cái, nhắc nhở bộn phận làm con. Bài ca dao ngắn gọn nhưng đã tạo nhiều liên tưởng suy nghĩ trong lòng người đọc, đó là đạo lý tốt đẹp của nhân dân, dân tộc Việt Nam.

–         Liên hệ, mở rộng qua ngạn ngữ,lời bài hát…

* Tình cảm con cái với cha mẹ.

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”

     Âm điệu câu ca dao cất lên nghe buồn da diết.

– Cách mượn không gian, thời gian: Mượn thời gian ban chiều để biểu đạt nỗi thương là một cách nói thật  hay. Chiều hôm là thời điểm sự đoàn tụ. Chim về rừng, thuyền về bến, con trở về với mái ấm gia đình. Đó là thời khắc gợi bao buồn, nhớ thương trong lòng người. Nhưng không phải là một chiều mà là “chiều chiều”. Bằng cách điệp từ “chiều chiều” tác giả dân gian đã gợi lên trước mắt ta một thời gian tiếp nối, triền miên, lê thê. Không phải là một chiều mà là nhiều chiều, chiều nào cũng vậy. Càng làm cho nỗi nhớ tăng lên chất chứa trong lòng cô gái. Ngõ sau là một không gian vắng vẻ, quạnh hiu, kín đáo ở làng quê Việt xưa, là nơi ít người qua lại, rất hợp với tâm trạng cô đơn, buồn bã, không biết chia sẻ cùng ai của người con gái đi lấy chỗng xa. Chính trong thời gian, không gian ấy, người con gái trông về quê mẹ nghìn trùng xa vồi vợi với tâm trạng đau đớn, tái tê như đứt từng khúc ruột. Đây là nỗi niềm chung của những người con gái đi lấy chồng trong xã hội phong kiến.

* Tình cảm anh em gắn bó, chia sẻ ngọt bùi, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau

“Anh em nào phải người xa,

Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân

Anh em như thể tay chân,

Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy,”

  Hai câu đầu là một định nghĩa sâu sắc về tình anh em. Điệp từ “cùng” kết hợp với các từ ngữ “chung bác mẹ”, “một nhà” làm nổi bật sự gắn bó anh em. Anh em là cùng một gia đình, cùng một người sinh ra, cùng hưởng sung sướng, cùng chung hoạn nạn. Lời thơ nôm na, giản dị ấy đã khẳng định: Tình cảm anh em là tình cảm ruột thiạt, thiêng liêng, gắn bó. Bài ca dao còn hay bởi cách so sánh: “Anh em như thể tay chân”. Từ mối quan hệ tay chân, người xưa giúp ta thấy được mối quan hệ máu thịt, không thể tách rời của anh em. Đồng thời, nhắc nhở anh em phải hoà thuận, thương yêu nhau, hạnh phúc cùng hưởng, đắng cay cùng chịu.

*Tình cảm vợ chồng cho dù đói nghèo vẫn thuỷ chung

“Râu tôm nấu với ruột bù

Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon”

     Tình cảm gia đình là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất, là cội nguồn để hình thành nên những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp khác. Qua những bài ca dao trên, ta phàn nào thấy được truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc, thấy được nhân dân ta ân tình, ân nghĩa đến nhường nào.

Luận điểm 2: Ca dao không chỉ có tiếng hát yêu thương tình nghĩa của người lao động trong quan hệ gia đình mà còn là tiếng hát ngợi ca quê hương, đất nước tươi đẹp.

  Từ cực Bắc đến đất Mũi Cà Mau – mảnh đất tận cùng của tổ quốc, đi tới đâu ta cũng bắt gặp những danh lam thắng cảnh của đất nước. Những cảnh đẹp ấy do thiên nhiên ban tặng và do con người tạo dựng nên. Những danh lam thắng cảnh ấy đã soi bóng vào ca dao làm nên những vần thơ tuyệt đẹp.

* Vẻ đẹp cánh đồng quê no ấm, trù phú

“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông

Thân em như chẽn lúa đòng đòng

Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai”

     Bài ca dao là lời cô thôn nữ nói với mọi người về vẻ đẹp của cánh đồng quê trong buổi nắng mai, diễn tả niềm vui, tâm trạng vui tươi, yêu đời, tự hào, sung sướng, tràn đấy sức sống của mình khi đứng trước cánh đồng quê ấy. Hai câu đầu sử dụng thể thơ lục bát biến thể, cấu trúc câu dài kết hợp với điệp từ “bát ngát, mênh mông” và đảo ngữ nhằm đưa lại cho ta cảm nhận sự rộng lớn khôn cùng, bao la, bát ngát, xanh ngắt một màu, trù phú của những cánh đồng quê. Những cánh đồng ở đây chỉ rộng lớn mà còn xa, dài, tít tắp đến tận chân trời. Những cánh đồng ấy rất đẹp, rất nên thơ và đầy sức sống. Câu thơ không tả màu xanh, những ta vẫn hình dung một màu xanh tươi của lúa, ngô, khoai, sắn… trải dài tít tắp dưới sự chăm sóc, vun xới của con người. Nổi bật trên bức tranh đồng quê ấy là hình ảnh cô thôn nữ. Cách dùng từ “thân em” ở đây thật độc đáo, không gợi sự tủi hờn, đắng cay, xót xa trăm bề của người phụ nữ như trong các bài ca dao khác mà “thân em” lại được cất lên như tiếng reo vui, tự hào, kiêu hãnh. “Thân em” được so sánh với cây lúa đang độ làm đòng tươi non, mơn mởn, căng đầy sức sống, căng tràn nhựa sống, đang độ sung sức nhất, hứa hẹn một mùa bội thu. Cách so sánh này làm nổi bật hình ảnh cô thôn nữ duyên dáng, xinh tươi, khoe khoắn, sức sống tươi trẻ dào dạt tuôn trào. Hình ảnh cô thôn nữ đã tạ nên cái hồn cho bức tranh, làm cho bức tranh trở nên sống động, hài hòa. Hình ảnh này còn muốn khắc đậm vẻ đẹp người phụ nữ làm chủ ruộng đồng, làm chủ cuộc đời. Rõ ràng, bức tranh đã điểm tô cho vẻ đẹp thanh bình của quê hương, đất nước.

Đường vô xứ nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc….

* Vẻ đẹp những địa danh

“Ở đâu năm cửa nàng ơi

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.

…                                                              ”

    Bài ca dao là lời của chàng trai, cô gái hát về miền quê bắc bộ. Chàng trai hỏi về những địa danh Bắc Bộ nổi tiếng về địa lí, lịch sử, văn hoá. Với những địa danh ấy, chàng chọn những nét tiêu biểu nhất. Điều đó cho thấy, chàng rất hiểu về địa lí, lịch sử, văn hoá miền quê ấy. Phải có tình yêu tha thiết với quê hương thì mới có thể nói về nó một cách đầy tinh tế như vậy. Lời đối đáp của cô gái cũng đầy thông minh, sắc sảo, chất chứa niềm tự hào về những địa danh được nhắc đến. Vẻ đẹp của miền quê Bắc Bộ là vẻ đẹp về thành quách, đền đài, núi sông: sông Lục Đầu gắn với chiến thắng của Trần Hưng Đạo, Hà Nội nổi tiếng với Năm Cửa Ô … Bài ca dao cho thấy non sông, đất nước tươi đẹp gắn liền với bao kì tích, với những trang huyền thoại tuyệt đẹp, gợi bao niềm yêu mến, gắn bó và kiêu hãnh, tự hào.

      Ca bài ca dao trên đều ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước với những đặc điểm lịch sử, văn hoá nổi bật của những vùng đất miền quê. Qua đó, bày tỏ niềm tự hào, yêu mến, gắn bó đối với những vùng đất, miền quê tươi đẹp ấy. Đó là nghĩa nặng tình sâu của người lao động đối với quê hương, đất nước. Tình yêu quê hương đất nước là tình cảm thiêng liêng trong trái tim mỗi người, là nguồn cảm hứng vô tận, là đề tài không bao giờ cũ.

* Đánh giá: Tình cảm gia đình đằm thắm và tình yêu quê hương đất nước được nhân dân ta thể hiện trong ca dao rất phong phú và đa dạng. Nó được thể hiện ở nhiều phương diên, nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Đọc ca dao ta không chỉ hiểu, yêu mến, tự hào về phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình, về cảnh đẹp làng quê, non sông đất nước mình mà còn cảm phục, trân trọng tình nghĩa sâu nặng, cao đẹp của người dân lao động. 

C. Kết bài:

Khẳng định ý nghĩa của ca dao.

– Liên hệ cảm nghĩ bản thân.

Chúc các bạn có bài thi học sinh giỏi Ngữ Văn 7 tốt nhất!

>> Xem thêm: Đề Ôn Tập Học Sinh Giỏi Ngữ Văn 7 Kèm Đáp Án Chi Tiết

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận