Bài học đường đời đầu tiên – Ngữ Văn 6 bộ Kết nối tri thức

Đang tải...

BÀI 1 – TÔI VÀ CÁC BẠN

PHẦN ĐỌC

VĂN BẢN ĐỌC

Phần này sách Ngữ Văn 6 tập một bộ Kết nối tri thức với cuộc sống sẽ giới thiệu các em các tác phẩm văn học để các em rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản:

VĂN BẢN 1. Bài học đường đời đầu tiên (trích Dế Mèn phiêu lưu kí), Tô Hoài

VĂN BẢN 2. Nếu cậu muốn có một người bạn… (trích Hoàng tử bé), Ăng-toan đơ Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Antoine de Saint-Exupéry)

VĂN BẢN 3. Bắt nạt, Nguyễn Thế Hoàng Linh

 

VĂN BẢN 1      

Trước khi đọc

– Có thể em đã từng đọc một truyện kể hay xem một bộ phim nói về một niềm vui hay nỗi buồn mà nhân vật đã trải qua. Khi đọc (xem), em đã có suy nghĩ gì?

– Chia sẻ với các bạn vài điều em thấy hài lòng hoặc chưa hài lòng khi nghĩ về bản thân.

Đọc văn bản 

Bài học đường đời đầu tiên(1)

Trích Dế Mèn phiêu lưu kí(2) – TÔ HOÀI

(1)

         Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu, tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Đôi càng tôi mẫm(3) bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt.

         Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ. Những ngọn cỏ gãy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua. Đôi cánh tôi, trước kia ngắn hủn hoẳn(4) bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vũ(5) lên, đã nghe tiếng phành phạch giòn giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. Đầu tôi to ra và nổi từng tảng, rất bướng. Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng(6) Tôi lấy làm hãnh diện với bà con về cặp râu ấy lắm. Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.

         Tôi đi đứng oai vệ. Mỗi bước đi, tôi làm điệu dún dẩy(7) các khoeo chân, rung lên rung xuống hai chiếc râu. Cho ra kiểu cách con nhà võ. Tôi tợn(8) lắm. Dám cà khịa(9) với tất cả mọi bà con trong xóm.

         Khi tôi to tiếng thì ai cũng nhịn, không ai đáp lại. Bởi vì quanh quẩn, ai cũng quen thuộc mình cả. Không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he(10). Ấy vậy, tôi cho là tôi giỏi. Những gã xốc nổi(11) thường lầm cử chỉ ngông cuồng là tài ba. Tôi đã quát mấy chị Cào Cào ngụ(12) ngoài đầu bờ, khiến mỗi lần thấy tôi đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng Vó(13) lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên. Tôi càng tưởng tôi là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đẩu thiên hạ rồi.

(2)

         Chao ôi, có biết đâu rằng: hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu dại của mình thôi. Tôi đã phải trải cảnh như thế. Thoát nạn rồi, mà còn ân hận quá, ân hận mãi. Thế mới biết, nếu đã trót không suy tính, lỡ xảy ra những việc dại dột, dù về sau có hối(14) cũng không thể làm lại được.

         Câu chuyện ân hận đầu tiên mà tôi ghi nhớ suốt đời. Bên hàng xóm tôi có cái hang của Dế Choắt. Dế Choắt là tên tôi đã đặt cho nó một cách chế giễu và trịch thượng(15) thế. Choắt nọ có lẽ cũng trạc tuổi tôi. Nhưng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường và gã cũng sợ tôi lắm.

         Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện(16). Đã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn củn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê(17). Đôi càng bè bè(18), nặng nề, trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt có một mẩu, và mặt mũi thì lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Đã vậy, tính nết lại ăn xổi ở thì(19) (thật chỉ vì ốm đau luôn, không làm được), có một cái hang ở cũng chỉ bới nông sát mặt đất, không biết đào sâu rồi khoét ra nhiều ngách như hang tôi.

         Một hôm, tôi sang chơi, thấy trong nhà luộm thuộm, bề bộn, tôi bảo:

         – Sao chú mày sinh sống cẩu thả(20) quá như thế! Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng(21). Ngộ có kẻ nào đến phá thì thật chú chết ngay đuôi(22)! Này thử xem: khi chú chui vào tổ, lưng chú phải lồm cồm đụng sát lên tận mặt đất, làm cho ai trên vệ cỏ nhìn sang cũng biết chú đương đi đứng chỗ nào trong tổ. Phỏng thử(23) có thằng chim Cắt nó nhòm thấy, nó tưởng mồi, nó mổ một phát, nhất định trúng giữa lưng chú, thì chú có mà đi đời! Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn.

         Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng tôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy, tôi có tính tự đắc(24) cứ miệng mình nói tai mình nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình không.

         Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu:

         – Thưa anh, em cũng muốn khôn nhưng khôn không được. Đụng đến việc là em thở rồi, không còn hơi sức đâu mà đào bới nữa. Lắm khi em cũng nghĩ nỗi nhà cửa như thế này là nguy hiểm, nhưng em nghèo sức quá, em đã nghĩ ròng rã hàng mấy tháng cũng không biết làm thế nào. Hay là bây giờ em nghĩ thế này… Song anh có cho phép nói em mới dám nói…

         Rồi Dế Choắt loanh quanh, băn khoăn. Tôi phải bảo:

         – Được, chú mình cứ nói thẳng thừng ra nào.

         Dế Choắt nhìn tôi mà rằng:

         – Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn(25) có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…

         Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng:

         – Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!

         Tôi về, không một chút bận tầm.

         Một buổi chiều, tôi ra đứng cửa hang như mọi khi, xem hoàng hôn xuống.

         Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le(26), sâm cẩm(27), vịt trời, bồ nông, mòng, két(28) ở các bãi sông xơ xác tận đầu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày, họ cãi cọ om bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép. Có những anh Cò gầy vêu vao ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều toả xuống ánh nước cửa hang mà suy nghĩ việc đời như thế.

         Bỗng thấy chị Cốc từ dưới mặt nước bay lên, đến đậu gần hang tôi, cách có mấy bước. Chừng rớ(29) được món nào, vừa chén xong, chị ta tìm đến đứng chỗ mát rỉa lông, rỉa cánh và chùi mép.

         Tính tôi hay nghịch ranh(30). Chẳng bận đến tôi, tôi cũng nghĩ mưu trêu chị Cốc. Tôi cất tiếng gọi Dế Choắt. Nghe tiếng thưa, tôi hỏi:

         – Chú mình muốn cùng tớ đùa vui không?

         – Đùa trò gì? Em đương lên cơn hen đây, hừ hừ…

         – Đùa chơi một tí.

         – Hừ… hừ… Cái gì thế?

         – Con mụ Cốc kia kìa.

         Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi:

         – Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta ấy hả?

         – Ừ.

         – Thôi thôi… hừ hừ… Em xin vái cả sáu tay. Anh đừng trêu vào… Anh phải sợ…

         Tôi quắc mắt:

         – Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa!

         – Thưa anh, thế thì,… hừ hừ… em xin sợ. Mời anh cứ đùa một mình thôi.

         Tôi lại mắng Dế Choắt và bảo:

         – Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này.

         Tôi rình đến lúc chị Cốc rỉa cánh quay đẩu lại phía cửa tổ tôi, tôi cất giọng véo von:

Cái Cò, cái Vạc, cái Nông,

Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào?

Vặt lông cái Cốc cho tao,

Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.

         Chị Cốc thoạt nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế nào, giật nảy hai đầu cánh, muốn bay. Đến khi định thần(31) lại, chị mới trợn tròn mắt, giương cánh lên như sắp đánh nhau. Chị lò dò về phía cửa hang tôi, hỏi:

         – Đứa nào cạnh khoé(32) gì tao thế? Đứa nào cạnh khoé gì tao thế?

         Tôi chui tọt ngay vào hang, lên giường nằm khểnh bắt chân chữ ngũ(33). Bụng nghĩ thú vị: “Mày tức thì mày cứ tức, mày ghè vỡ đầu mày ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu thì mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu!”

         Một tai hoạ đến mà đứa ích kỉ thì không thể biết trước được. Đó là: không trông thấy tôi, nhưng chị Cốc đã trông thấy Dế Choắt đang loay hoay trong cửa hang. Chị Cốc liền quát lớn:

         – Mày nói gì?

         – Lạy chị, em nói gì đâu!

         Rồi Dế Choắt lủi vào.

         – Chối hả? Chối này! Chối này!

         Mỗi câu “Chối này” chị Cốc lại giáng một mỏ xuống. Mỏ Cốc như cái dùi sắt, chọc xuyên cả đất. Rúc trong hang mà bị trúng hai mỏ, Choắt quẹo xương sống lăn ra kêu váng. Núp tận đáy đất mà tôi cũng khiếp, nằm im thít. Như đã hả cơn tức, chị Cốc đứng rỉa lông cánh một lát nữa rồi lại bay là xuống đầm nước, không chút để ý đến cảnh khổ đau vừa gây ra.

         Biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên. Trông thấy tôi, Dế Choắt khóc thảm thiết.

         Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:

         – Sao? Sao?

         Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:

         – Nào tôi đâu biết cơ sự(34) lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm! Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?

         Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu như thế này:

         – Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.

         Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội mình.

         Giá tôi không trêu chị Cốc thì đâu đến nỗi Choắt việc gì. Cả tôi nữa, nếu không nhanh chân chạy vào hang thì tôi cũng chết toi rồi.

         Tôi đem xác Dế Choắt đến chôn vào một vùng cỏ bùm tum(35). Tôi đắp thành nấm mộ to. Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ về bài học đường đời đầu tiên.

(Tô Hoài – Tác phẩm vãn học được Giải thưởng Hồ Chí Minh, quyển II, NXB Văn học, Hà Nội, 2005, tr. 874 – 880)

 

Sau khi đọc

– Tô Hoài (1920 – 2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê ở Hà Nội. ông là nhà văn có vốn sống rất phong phú; năng lực quan sát và miêu tả tinh tế; lối văn giàu hình ảnh, nhịp điệu; ngôn ngữ chân thực, gần gũi với đời sống. Tô Hoài đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại hơn 100 tác phẩm, trong đó cỏ nhiều truyện viết cho thiếu nhi như: Võ sĩ Bọ Ngựa, Dê và Lợn, Đôi ri đá, Dế Mèn phiêu lưu kí, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử,…

– Dế Mèn phiêu lưu kí là truyện đồng thoại nổi tiếng nhất của Tô Hoài, được trẻ em rất yêu thích. Năm 1941, Tô Hoài xuất bản truyện Con Dế Mèn, sau đó tác giả viết thêm Dế Mèn phiêu lưu kí. Năm 1954, nhà văn gộp hai tác phẩm trên thành Dế Mèn phiêu lưu kí.

Em có biết?

– Dế Mèn phiêu lưu kí là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra gần 40 thứ tiếng trên thế giới.

– Dế Mèn phiêu lưu kí đã được chuyển thể thành truyện tranh, phim hoạt hình và được nhiều hoạ sĩ vẽ minh hoạ.

 

Trả lời câu hỏi về văn bản Bài học đường đời đầu tiên 

1. Câu chuyện được kể bằng lời của nhân vật nào? Kể theo ngôi thứ mấy?

2. Đọc phần một đoạn trích, nêu một số chi tiết miêu tả Dế Mèn khiến em liên tưởng tới đặc điểm của con người. Lối miêu tả này thường được sử dụng ở loại truyện nào?

3. Em thích hoặc không thích điều gì trong cách Dế Mèn tự miêu tả và đánh giá về bản thân ở phần một? Vì sao?

4. Dế Mèn đã nói gì khi sang thăm nhà Dế Choắt và khi Dế Choắt nhờ giúp đỡ? Những lời nói đó thể hiện thái độ gì của Dế Mèn?

5. Chứng kiến cái chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã có những cảm xúc, suy nghĩ gì? Những cảm xúc, suy nghĩ đó cho thấy sự thay đổi nào ở Dế Mèn?

6. Theo em, từ những trải nghiệm đáng nhớ, Dế Mèn đã rút ra được bài học gì?

7. Nêu hình dung của em về nhân vật Dế Choắt. Nếu gặp một người bạn có đặc điểm giống như Dế Choắt, em sẽ đối xử với bạn như thế nào?

 

VIẾT KẾT NỐI VỚI ĐỌC

Viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) kể lại một sự việc trong đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên bằng lời của một nhân vật do em tự chọn.

 

*Chú thích trong đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên:

(1) Nhan đề được đặt dựa theo lời kể trong đoạn trích.

(2) Dế Mèn phiêu lưu kí gồm mười chương. Bốn chương đầu kể về lai lịch và những bài học, những biến cố bất ngờ trên đường đời của Dế Mèn. Sáu chương sau kể về các cuộc phiêu lưu kì thú của Dế Mèn với người bạn thân Dế Trũi. Văn bản Bài học đường đời đầu tiên được trích từ chương 1 với tiêu đề: Tôi sống độc lập từ thuở bé – Một sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời.

(3) Mầm: béo tròn, đầy đặn.

(4) Hủn hoẳn: ngắn đến mức khó coi

(5) Vũ: múa, ở đây có nghĩa là vỗ cánh.

(6) Hùng dũng: mạnh mẽ, hiên ngang, can đảm, mạnh bạo (hùng: có sức mạnh; dũng: can đảm, mạnh bạo).

(7) Dún dẩy (như nhún nhẩy): chuyển động nhẹ, theo chiều lên xuống, nhịp nhàng.

(8) Tợn: bạo dạn đến mức liều lĩnh, không biết sợ hãi là gì.

(9) Cà khịa: cố ý gây sự để cãi nhau, đánh nhau.

(10) Ho he: tỏ ý muốn chống lại (bằng lời nói hoặc cử chỉ).

(11) Xốc nỗi: hăng hái nhưng thiếu chín chắn.

(12) Ngụ: ở, sinh sống.

(13) Gọng Vó: loài côn trùng chân dài, có thể di chuyển trên mặt nước như đi trên cạn.

(14) Hối: cảm thấy tiếc và băn khoăn, ăn năn, day dứt vì đã trót làm điều có lỗi.

(15) Trịch thượng: ra vẻ bề trên, khinh người khác.

(16) Thuốc phiện: cây thường trồng ở vùng cao, lá mọc so le, hoa nhiều màu sắc, thân và quả cho một thứ nhựa dùng để chế thuốc hoặc để hút; là chất kích thích thần kinh, gây nghiện; bị cấm trồng, cấm buôn bán và sử dụng.

(17) Gi-lê (phiên âm từ tiếng Pháp): áo chẽn, không tay, không cổ, cài khuy ở phía trước, ngắn đến thắt lưng, thường mặc ngoài áo sơ mi.

(18) Bè bè: có bề ngang rộng quá mức bình thường (thường nói về thân thể hoặc bộ phận của thân thể).

(19) Ăn xổi ở thì: cách sống tạm bợ cho qua ngày, không tính đến ổn định lâu dài (xổi: tạm thời, chóng vánh; ăn xổi: ăn ngay, có ngày nào ăn ngày ấy; ở thì: sống tạm bợ).

(20) Cầu thả: không cẩn thận, chỉ qua quýt cốt cho xong.

(21) Tuềnh toàng: đơn sơ, trống trải, tạm bợ.

(22) Chết ngay đuôi: chết ngay lập tức, không kịp phản ứng gì (ngay: ở tư thế thẳng đờ, không cử động; ngay đuôi: đuôi ở tư thế thẳng đờ ra).

(23) Phỏng thử: từ nêu giả thiết với ý khẳng định, tương tự như các từ giả thử, giả dụ,…

(24)Tự đắc: tự cho mình là hay, là giỏi.

(25) Tắt lửa tối đèn: chỉ tình huống bất trắc, khó khăn, cần sự giúp đỡ của những người xung quanh.

(26) Le (thường gọi là le le): chim sống ở nước, hình dạng giống vịt nhưng nhỏ hơn, có mỏ nhọn.

(27) Sâm cầm: chim sống ở nước, mỏ trắng, lông đen, sống ở phương bắc, trú đông ở phương nam.

(28) Mòng, két: chim có hình dạng như vịt nhưng nhỏ hơn, sống ở phương bắc, trú đông ở phương nam.

(29) Rớ: gặp được, bắt được, có được một cách dễ dàng ngẫu nhiên.

(30)  Nghịch ranh: trò nghịch ngợm tinh quái đáng lẽ không nên làm hoặc không được phép làm vì có thể gây hại.

(31) Định thần: làm cho tinh thần trở lại trạng thái thăng bằng bình thường.

(32) Cạnh khóe: (lối nói, cách nói) không nói thẳng ra mà nói vòng vo, nói xa nói gần một cách không thân thiện, ác ý.

(33) Bắt chân chữ ngũ: vắt chân này lên chân kia, giống hình chữ ngũ trong chữ Hán (ngũ: năm).

(34) Cơ sự. sự tình, sự việc không hay đã xảy ra.

(35) Bùm tum (như um tùm): (cây cối) rậm rạp, sum sê.

>> Xem thêm: Bài 1: Đọc (Tri thức Ngữ Văn) – Ngữ Văn 6 bộ Kết nối tri thức

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận