Trọng tâm kiến thức cơ bản tác phẩm Tràng giang tác giả Huy Cận – Ôn thi THPTQG

Đang tải...

I. XUẤT XỨ

Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu năm 1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hổng mênh mang sông nước.
Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám và ở giai đoạn nào cũng gặt hái nhiều thành công. Trước cách mạng, ông là một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hổn thơ ảo não. Thơ ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng là Tràng giang.

1. Nhan đề

+ Tràng (trường): dài; giang: sông. Tràng giang (Trường giang): sông dài.

+ Tràng giang còn gợi hình ảnh con sông rộng (do âm vang của việc láy vần “ang”; trường giang chỉ là sông dài).

Tràng giang là cách diễn đạt mới trong khi Trường giang dễ bị nhầm lẫn với tên một con sông ở Trung Quốc và trong thơ Đường.

2. Lời để từ ” Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

+ “Trời rộng”, “sông dài” mang nghĩa khái quát về không gian nghệ thuật của bài thơ. Đó là một khung cảnh sông nước mênh mông, vô biên.

+ “Bâng khuâng”, “nhớ” khái quát lên tâm trạng buồn, cô đơn bởi sự xa cách, chia ly giữa trời và sông.
-> Câu đề từ vừa khái quát được nội dung tư tưởng của cả bài thơ, vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo, vừa gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.

II. PHÂN TÍCH

Bài thơ có bốn khổ, giống như bốn bài tứ tuyệt của Đường thi. Tuy cảnh yật ở mỗi khổ có khác nhau nhưng cả bốn khổ thơ đểu có chung một cấu tứ: mênh mang sóng nước và dợn dợn một nỗi buồn sầu. Ấn chứa bên trong cái thi tứ chung ấy là tâm trạng của chủ thể cảm xúc, đại diện cho cả một thế hệ thanh niên hồi ấy, luôn cảm thấy mình nhỏ bé, lạc lõng, bơ vơ giữa cái mênh mông, quạnh vắng của kiếp người. Một trong những màu sắc mang tính cổ điển của Tràng giang là ở đặc điểm này.

1. Khổ thơ đẩu: Mở ra bức tranh thiên nhiên tràng giang

+ Khổ thơ mở đẩu miêu tả bao quát khung cảnh sông nước tràng giang, nhưng thực chất nhằm gợi tả nỗi buồn về những thân phận lạc loài, phiêu dạt:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Ba câu thơ đẩu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ ra hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi lênh đênh trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu đầu mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, miên man, miên man đến tận nơi nào. Không chỉ vậy, bằng phép đối giữa câu trên “buồn điệp điệp” với câu dưới “nước song song”, nhà thơ còn ngầm so sánh nỗi buồn của mình cũng trùng trùng, điệp điệp, triền miên, vô tận như những con sóng. Sóng gợn như thể nỗi buồn điệp điệp…, nhưng nhờ sự thiếu vắng từ so sánh khiến cho ý nghĩa của câu thơ có vẻ trừu tượng hơn, tạo ra được sự mờ nhoè cần thiết, và do vậy, cũng khơi gợi được sự liên tưởng đa phương, đa chiều trong lòng người đọc.

+ Trên dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, con thuyền không người lái, buông xuôi, buông trôi mặc cho sự đẩy đưa vô định của dòng nước, như thể những kiếp người tha phương lạc loài, phó mặc cho sự nổi trôi của số phận. Vậy mà thuyền với nước cũng chẳng thể hoà nhập được với nhau, chỉ song song với nhau chứ không có sự hoà hợp, đồng cảm hay một mối dây liên hệ nào. Thuyền buông xuôi, buông trôi với dòng mà lại phải chia li với dòng, bởi nước cũng đang có nỗi sầu riêng của nước, thậm chí có cả trăm ngả sầu, nên thuyền vê cũng chẳng thể làm cho nước vui hơn mà chỉ càng thêm sầu, thêm tủi. Câu cuối: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” khép lại cả đoạn thơ, nhưng hình ảnh một cành củi khô mục nát, rơi gãy, lạc mấy dòng lại gợi mở những liên tưởng mạnh mẽ về thân phận của những kiếp người bị bỏ rơi, lạc lõng, bơ vơ giữa mấy dòng đời vô định. Đúng như nhận xét của Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam từ hơn nửa thế kỉ trước: “Cái tôi cô đơn, tội nghiệp của các nhà Thơ mới dường như đã tìm thấy sự tương hợp tuyệt diệu trong cành củi khô lạc loài của Huy Cận”.

+ Ở câu thứ ba, thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi cùng với dòng nước, nước đẩy thuyền trôi theo; thế mà ở đây Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền vê, nước lại”. Cảnh gợi ra sự cô đơn, xa vắng, chia lìa. Chính vì thế mà gợi ra trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Trăm ngả nước là trăm ngả sầu. Nỗi “buồn” tăng cấp thành nỗi “sầu” chất chứa, chẳng thể vơi được. Câu thơ cuối khổ thơ mang nét hiện đại với một hình ảnh rất đời thường: một cành củi khô trôi dạt giữa “mấy dòng” nước. Phép đảo đưa hình ảnh “củi”, một sự vật bé nhỏ, tầm thường lên đầu câu làm nổi bật cái nhỏ nhoi của nó; và phép đối giữa “một” cành củi khô với “mấy” dòng nước càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ nhoi, cô độc đến tội nghiệp của “cành củi khô” với dòng sông mênh mông vô tận. Hình ảnh này gợi liên tưởng đến kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời bất tận.
-> Cả khổ thơ đầu, bằng sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại, nghệ thuật đảo, đối và hệ thống từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã khắc họa bức tranh thiên nhiên tràng giang rộng lớn vô tận, gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa và thân phận của những kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời.

2. Khổ thơ thứ hai: Bức tranh tràng giang được hoàn chỉnh thêm bằng những chi tiết mới
Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc ở khổ thơ đầu nhưng nhấn mạnh về một không gian mênh mang hoang vắng, cô liêu, qua đó gợi tả nỗi buồn vê’ một sự sống tàn tạ, bị bỏ quên:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

+ Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, nhỏ bé, thưa thớt, còn “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Khung cảnh một dòng tràng giang mênh mang được diễn tả bằng những câu thơ thật đặc sắc: “Lơ thơ cổn nhỏ, gió đìu hiu”… Cồn là một doi cát nhỏ nổi lên ở giữa dòng sông, bị bao bọc bởi bốn bê’ mênh mang sóng nước nên hình ảnh đó cũng tượng trứng cho một thế giới bị cô lập, phong toả, đóng kín. Cách dùng đảo ngữ: đặt tính từ miêu tả lơ thơ lên trước sự vật khiến cho câu thơ tăng cường thêm tính chất tạo hình, hình ảnh thơ trở nên nổi bật hơn. Giữa cái không gian sông nước mêng mang đó, những gì hiện hình đều quá nhỏ bé, thưa thớt, không đáng kể so với cái mênh mông, rợn ngợp của đất trời. Cổn đã nhỏ lại chỉ lơ thơ trong gió lạnh đìu hiu nên dễ gợi ra vẻ hiu hắt, quạnh vắng như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói ông đã học được hai chữ đìu hiu trong những câu thơ đầy gợi cảm của bà Đoàn Thị Điểm trong bản dịch Chinh phụ ngâm:

Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…

Đây là những câu thơ miêu tả khung cảnh một chiến địa sông nước hoang phế sau trận Xích Bích nổi tiếng trong Tam Quốc diễn nghĩa, do vậy, chữ đìu hiu của Huy Cận trong bài Tràng giang cũng dễ gợi lên trong lòng người đọc những cảm giác thê lương, rợn ngợp.

+ Tất cả gợi ra khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều, hoang vắng. Giữa khung cảnh ấy có lẽ con người càng trở nên đơn côi, rợn ngợp, đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái: vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt; vừa có thể là câu hỏi “đâu..như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người; lại cũng có thể là “đâu có..một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hê’ có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Dù hiểu theo cách nào thì cũng vẫn là quang cảnh vắng lặng, hắt hiu.

+ Ở câu thứ ba, thứ tư, thiên nhiên càng mở rộng ra cả bốn chiểu: cao, sâu, dài, rộng. “Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa, bởi dường như đất và trời ngày càng xa nhau hơn. Không gian trở nên “sâu chót vót”. Đây là cách diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, nó mang nét đẹp hiện đại. Đôi mắt của nhà thơ không dừng lại ở bên ngoài của trời mây, nắng, mà như xuyên thấu vào đáy vũ trụ thăm thẳm, bao la, vô tận. Bởi câu thơ này đã dựa trên một quan sát thực tế kết hợp với sử dụng ấn tượng và cảm giác: khi mặt trời lên cao, ánh nắng chiếu rọi xuống dòng tràng giang mênh mang, vắng lặng thì nhìn xuống lòng sông, có thể thẩỵ được toàn bộ cả bầu trời trong xanh cao chót vót, vì vậy mà có cảm giác lòng sông sâu chót vót. Cách kết hợp từ như thế quả là táo bạo nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật, gợi được sự liên tưởng đa chiều trên cùng một trục không gian: xuống và lên, sâu và cao. Nó vừa diễn tả được độ sâu thăm thẳm của dòng sông, lại vừa gợi ra được chiều cao chót vót của bầu trời. Hai chiều sâu và cao ấy lại được kết hợp với câu thơ tả về chiều dài và chiều rộng (“sông dài, trời rộng”) đã tạo ra một không gian nhiều chiều, trải rộng và mở mãi ra về phía vô cùng, vô tận. Và trong cái khung cảnh không gian mênh mang, thăm thẳm, hoang vắng cô liêu ấy, các sự vật dường như cũng không có sự giao hoà gặp gỡ, không có chút liên hệ cảm thông nào: nắng xuống thì trời lên, sâu lại hoá thành cao, sông dài liền với trời rộng…
Với những nét vẽ mới: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, trời sâu chót vót, bến cô liêu. bức tranh tràng giang không những không sống động hơn, mà càng chìm sầu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh.
-> Cả khổ thơ gợi tả một không gian đa chiều mang màu sắc tâm trạng độc đáo: Đó là một vũ trụ bao la, hùng vĩ nhưng thiếu vắng sự sống, là một bức tranh thiên nhiên mà màu sắc chủ đạo là cảm giác rợn ngợp, cô liêu bởi trong đó thiếu vắng những niềm giao cảm ấm áp, gần gũi của cuộc đời.

3. Khổ thơ thứ ba: Tiếp tục hoàn thành bức tranh tràng giang với những nét vẽ khác
Khổ thơ thứ ba nhấn mạnh cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên hệ giữa các sự vật, qua đó bộc lộ nỗi khát khao những tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời:

Bèo dạt vê đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niêm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

+ Hình ảnh cánh bèo trôi bổng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên sự bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không phải là một cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng gợi ra sự rợn ngợp trước thiên nhiên, cõi lòng như càng đau đớn, cô đơn. Giữa không gian tràng giang mênh mông đó không hể có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết: “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu” để nối hai bờ sông rộng lớn, hoang vắng, thê lương. Cấu trúc phủ định “không… không..phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi tận nơi nào. Không có gì kéo con người ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vẫn chỉ có dòng tràng giang rộng lớn mênh mông. Bên cạnh “hàng nối hàng” của cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng”. “Bờ xanh” “lặng lẽ” tiếp với “bãi vàng”, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không gian càng bao la, vô cùng vô tận. Cảnh có thêm màu sắc nhưng chỉ càng buồn hơn, chia lìa hơn.

+ Xuân Diệu từng có ý thơ rất hay nói vê’ nỗi cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ: ngay cả những lứa đôi mà dường như cũng không thể tìm thấy sự đổng điệu bởi mỗi con người vẫn là một thế giới riêng, là một vũ trụ bí mật khó có thể hoà nhập và đổng cảm:

Em là em, anh vẫn cứ là anh.
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.

(Xa cách)

Trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, các sự vật cũng vậy, tuy luôn ở bên nhau nhưng vẫn không có ý tìm đến với nhau, không có sự giao cảm giao hoà. Khung cảnh thiên nhiên ấy gợi lên niềm khao khát của một con người không tìm thấy được những tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời, trong một thế giới mà nỗi buồn về thân phận cô đơn đã trở thành mối sầu vạn kỉ của kiếp người.

4. Khổ thơ cuối: Hoàn thiện nốt bức tranh tràng giang và trực tiếp bộc lộ cõi lòng nhà thơ
Khổ thơ cuối cùng miêu tả khung cảnh một chiều thu trên sông và tầm trạng buồn nhớ quê hương của con người, một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thơ cổ điển, nhưng đặt trong mạch cảm xúc và tâm trạng chung thì khổ thơ như thể dồn tụ ý tưởng của cả bài:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiêu sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

+ Hai câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh kì vĩ, nên thơ. Cảnh được gợi lên bởi bút pháp nghệ thuật cổ điển với hình ảnh mây trắng, cánh chim chiều. “Mây cao” chồng chất tầng tầng “lớp lớp”, đang “đùn” thành “núi bạc”. Những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc, hình ảnh thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa kì vĩ, tráng lệ, vừa nên thơ. Có lẽ, câu thơ được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Huy Cận đã vận dụng tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Giữa khung cảnh rộng lớn, tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim chiều – hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ, thường để báo hiệu thời gian chiều tối. Tuy nhiên, trong câu thơ của Huy Cận, nó không chỉ là báo hiệu thời gian, mà còn gợi ra không gian bao la vô cùng, vô tận bởi hình ảnh cánh chim nhỏ được đặt trong sự tương phản với không gian mây cao, núi bạc. Hình ảnh cánh chim nghiêng lệch chở nặng ráng chiều càng gợi ra hình ảnh thi nhân cảm thấy mình bé nhỏ, cô đơn, bất lực trước thời cuộc. Nét tâm trạng này dọc theo toàn bài thơ, không phải chỉ riêng của Huy Cận, mà nó là tâm trạng chung, là “nỗi buồn thế hệ” của các nhà Thơ mới.

Nước mất nhà tan, nhân dân nô lệ, chưa đủ niềm tin vào con đường cách mạng, các nhà Thơ mới tìm cách thoát li thực tại, mỗi người một cách khác nhau: Thế Lữ thoát “lên tiên”, Lưu Trọng Lư “phiêu lưu trong trường tình” Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử “điên cuồng” trong thế giới ma quái, kì dị… Huy Cận ảo não tìm vào cái vắng lặng, mênh mông, vô tận của vũ trụ để quên đi thực tại đáng buồn.
Tâm trạng của nhà thơ bộc lộ rõ nét hơn trong hai câu cuối. “Dợn dợn’ là từ láy nguyên rất sáng tạo của Huy Cận. Từ láy này đi cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương. Đó là nỗi niềm của một người con mất nước: nhớ quê hương ngay khi đang đứng giữa quê hương, khi quê hương đã không còn. Đây cũng là tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bấy giờ. Câu thơ cuối được gợi từ câu thơ cổ của Thôi Hiệu trong bài thơ Lẩu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu):

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sống khói sóng cho buồn lòng ai.

Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng thì buồn, nhớ quê nhà, còn nay, Huy Cận không cần tác động của ngoại cảnh mà vẫn “nhớ nhà”. Cái tâm trạng chạnh buồn nhớ quê của người khách tha hương xưa là do ngoại cảnh, còn nỗi buồn da diết của thi nhân hôm nay là nỗi buồn tâm cảnh, nỗi buồn nhớ vốn đã chất chứa sẵn tự cõi lòng nên đâu phải cần đến khói hoàng hôn để mà gợi nhớ! Cho nên, mặc dù đang sống giữa quê hương mình, đang ngắm nhìn cảnh trời nước mênh mang của đất nước trong buổi chiểu thu mà lòng người thì vẫn bồi hồi, da diết một nỗi buồn nhớ quê nhà. Ấy là cái tâm trạng và nỗi lòng của kẻ thiếu quê hương, cũng là cái tâm trạng và nỗi lòng của cả một thế hệ thanh niên trước cách mạng “bơ vơ như những đứa con bị lạc mất mẹ” (Hoài Thanh), nên nay đứng trước cảnh tràng giang dợn dợn thấy lòng mình càng thêm sầu tủi da diết.

+ Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh gọi nỗi buồn nhớ trong Tràng giang là một nỗi buồn được “toả ra từ hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng đời thi nhân nên không cần có nhiều chuyện…” Sở dĩ như vậy vì xét đến cùng, nỗi buồn của Tràng giang, cái tâm trạng nặng buồn sông núi tạo nên điểm nhìn nghệ thuật của Huy Cận trong toàn bài thơ thật ra đều được bắt nguồn từ một nguyên nhân rất sâu xa là nỗi buồn thời đại: nỗi buồn về thân phận con người trong cảnh ngộ đất nước lầm than. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương tha thiết của nhà thơ, mới hiểu được Tràng giang là bài thơ “dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).

III. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT

Có thể coi nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Tràng giang là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất: màu sắc cổ điển và chất hiện đại.

1. Màu sắc cổ điển
Màu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ mới.
a) Cổ điển ở nhan đề
Bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ Hán. “Tràng” (một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính; “giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” (Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời) (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng).
b) Cổ điển ở lời đề từ
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Trời rộng gợi cảm giác vê’ sự vô biên của vũ trụ. Sông dài tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian. Trời rộng và sông dài mở ra không gian ba chiều gợi cảm giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước cái mênh mang, bất tận của trời đất. Tâm trạng này từng được diễn tả một cách sâu sắc trong những vần thơ cô đọng, đầy ám ảnh của Trần Tử Ngang trong Đăng U Châu đài ca:

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
(Người trước không thấy ai
Người sau thì chưa tới
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Một mình xót xa mà rơi lệ)

c) Cổ điển ở tứ thơ sóng đôi
Tràng giang được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi:
Có dòng “tràng giang” thuộc vê’ thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu hình và dòng “tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường thi.
Tiếp cận “tràng giang” trong tư cách dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ thơ nào cũng có thông điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”, “con nước”, “dòng”… Thông điệp gián tiếp là các từ: “sóng gợi’ “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh” “bãi vàng”…
Tiếp cận Tràng giang với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện thêm một điều thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn. Sóng buồn vô hạn (buồn điệp điệp); gió đầy tử khí: “đìu hiu”; bến sông cô đơn vắng vẻ: “bến cô liêu”; nước với nỗi buồn trải khắp không gian: “sầu trăm ngả”.
d) Cổ điển ở nghệ thuật đối
Màu sắc cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối của Đường thi nhưng khá linh hoạt và phóng túng.
Chẳng hạn: “sóng gợn…” đối với “con thuyền…”; “nắng xuống” đối với “trời lên”; “sông dài” đối với “trời rộng”…
Nhưng đóng góp quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để bằng hai hệ thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật nhỏ bé, gợi suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: thuyền, củi, bến, bèo, cánh chim… và một bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô hạn của vũ trụ: sông dài, trời rộng, lớp lớp mây cao, núi bạc…
e) Sử dụng hệ thống từ láy gợi âm hưởng cổ kính (10 lấn/16 dòng thơ, cách ngắt nhịp truyền thống: 3/4)
Hệ thống tù láy trải khắp bài thơ: “tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường thi với rất nhiều hình ảnh và chất liệu quen thuộc. Đặc biệt, câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Điểm khác biệt ở hai tác giả là: Nỗi nhớ nhà của Thôi Hiệu được gợi từ hình ảnh “khói sóng” còn nỗi nhớ của Huy Cận không cần tác động của ngoại giới (không khói hoàng hôn) vì đã là một yếu tố nội tâm thường trực. Đây cũng là nét khác biệt cơ bản của hai cách phô diễn cảm xúc tạo nên đặc điểm riêng của thi pháp thơ trung đại và thi pháp thơ hiện đại.

2. Màu sắc hiện đại

+ Dù bài thơ Tràng giang có in đậm màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phần tích thì hiện đại vẫn là nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lẳng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ quy tắc ước lệ truyền thổng vừa đem đến một phong cách trữ tình mới.

+ Trong khổ thơ thứ ba có những câu hỏi không thể có câu trả lời. Những câu hỏi như để khơi sâu thêm nỗi buồn, cảm giác hẫng hụt và đặc biệt là tình cảnh bơ vơ của cái tôi trước một thế giới không còn là nơi nương tựa quen thuộc như muôn nghìn năm trước nữa.
Trong khổ thơ đó còn có sự diễn đạt mang tính tảng cấp nhấn vào các ngôn từ mang tính phủ định khiến người đọc nảy sinh những liên tưởng và so sánh. Từ “khách vắng teo” của Nguyễn Khuyến đến “đã vắng người sang những chuyến đò” của Xuân Diệu cho đến hàng loạt từ “không đò”, “không cầu”, “lặng lẽ” của Huy Cận là cả một hành trình “càng đi sâu càng thấy lạnh” (Hoài Thanh) của con người khi bước vào thế giới hiện đại.

+ Khổ thơ cuối diễn tả một sự đối lập cao độ giữa con người với vũ trụ. Cái mênh mông của không gian “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tương phản gay gắt với hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa”. Không còn là cánh chim mang tính nghệ thuật thuần tuý duy mĩ như trong Đường thi: “Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng v<ậi trời xa một màu” (Vương Bột) mà cánh chim ở đây chứa đựng cái tôi rợn ngợp trước hoàng hôn, gợi ám ảnh về cái hữu hạn của kiếp người trước cái vô hạn của tạo hoá.

+ Nhu cầu tìm về một hình ảnh thần thương, quen thuộc sưởi ấm lòng người trong bối cảnh nỗi cô đơn đang ngập tràn tâm trạng như sắp dìm cái tôi trữ tình vào một nỗi buồn vừa mang tính muôn thuở vừa chưa từng trải qua bao giờ sẽ là một tất yếu.
Hai câu cuối vừa như chịu ảnh hưởng từ hai câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu, vừa như muốn đối lập với người xưa bằng lối bộc lộ cảm xúc trực tiếp theo phong cách của con người thời hiện đại.

IV. Ý NGHĨA
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.

HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1 (5 điểm). Cảm nhận của anh/ chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Xem toàn bộ phần II.
Câu 2 (5 điểm). Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Anh/ Chị hãy phân tích bài thơ Tràng giang để làm sáng tỏ nhận xét trên. Xem toàn bộ phẩn I, II, III.
Câu 3 (2 điểm). Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Tràng giang (Huy Cận).
Xem toàn bộ phần III.

*** Xem thêm : Trọng tâm kiến thức cơ bản tác phẩm Vội vàng (Xuân Diệu) – Ôn thi THPT tại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận