Trọng tâm kiến thức cơ bản tác phẩm Đây thôn Ví Dạ tác giả Hàn Mạc Tử – Ôn thi THPTQG

Đang tải...

I. XUẤT XỨ

Đây thôn Vĩ Dạ (lúc đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ) sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ điên (vể sau đổi thành Đau thương).

Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.

II. KHÁI QUÁT VÉ BÀI THƠ

Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đã mắc căn bệnh nan y. Thi phẩm được in trong tập Thơ điên, được khơi nguồn cảm hứng từ tấm bưu ảnh mà Hoàng Thị Kim Cúc (cô gái thôn Vĩ mà thi sĩ đã yêu, một mối tình đơn phương) gửi cho ông. Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn, gồm ba khổ thơ.

III. PHÂN TÍCH 

1. Khổ thơ đầu

Mở đẩu đoạn thơ (cũng là mở đầu bài thơ) là một câu hỏi:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu hỏi vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra) vừa là lời tự vấn sao không vể Vĩ Dạ của nhà thơ. Câu thơ mang giọng điệu của một lời mời gọi tha thiết về thôn Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm.

Hãy về thôn Vĩ, bởi thôn Vĩ là bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống:

Nhìn nắng hàng cau nắng môi lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc


Cảnh thôn Vĩ đẹp nhất là vào những buổi bình minh với những ánh nắng hổng đầu tiên trong ngày. Nắng mới lên là nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ, ấm áp. Không phải là nắng ban mai, hay nắng mai,… như cách nói thông thường. Chữ mới tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của những tia nắng đầu tiên trong ngày. Thi nhân như đã theo nắng mới lên mà vê’ với Vĩ Dạ.

Đặc trưng của thôn Vĩ Dạ là những hàng cau thẳng tắp. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì thế, nắng hàng cau là nắng thanh tân, tinh khôi.

Câu thơ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc cất lên như một tiếng reo vui, một lời xuýt, xoa của thi nhân trước vẻ đẹp vô ngần của thôn Vĩ. Từ “mướt” như ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc, một màu xanh mỡ màng, tràn trề nhựa sống của Vĩ Dạ. “Xanh như ngọc” là màu xanh lung linh, ngời sáng, long lanh.

Ở hai câu thơ này, cả vườn thôn Vĩ được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được đánh thức và bừng lên trong ánh nắng hổng ban mai. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên, đến khi ngập tràn thì nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc giữa chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở.

Đến câu thơ cuối, cảnh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người:

Lá trúc che ngang mặt chữ điên.

Lâu nay, “mặt chữ điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy nhiên, trong ca dao miền Trung, “mặt chữ điển” cũng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu, khả ái của người phụ nữ: Mặt má bầu ngó lâu muốn chửi/ Mặt chữ điên tiền rưỡi cũng mua. Gương mặt chữ điền vuông Yắn ấy xuất hiện đằng sau vẻ mảnh mai, thanh tú của “lá trúc”. Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” vì thế càng làm tăng thêm vẻ sinh động của bức tranh thôn Vĩ, bởi ở đây thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng và thơ mộng.

Trong thơ, ngoại cảnh cũng là nội tâm. Đặt bức tranh thôn Vĩ đẹp trong nỗi niềm của thi nhân hướng về người con gái Vĩ Dạ mà tác giả đang thẩm thương trộm nhớ, ta hình dung được tâm trạng của nhà thơ. Đó là niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (tất nhiên đây chỉ là cảm nhận của Hàn Mặc Tử), là niềm hi vọng loé sáng về tình yêu, hạnh phúc.

-> Đọc khổ thơ đầu ta cảm nhận được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Đồng thời, đó cũng là niềm hi vọng hạnh phúc của thi nhân.

2. Khổ thơ thứ hai

Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, đổng thời bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng.

Ở hai câu thơ đầu, bức tranh hiện ra là khung cảnh thiên nhiên ban ngày của xứ Huế:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Cảnh ở đây vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hoá để trở nên có hổn, sinh động. “Gió theo lối gió, mây đường mây” ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió, mây chia lìa, đôi đường, đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì “gió thổi mây bay”, phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia tách?

– Nhà thơ còn nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính mình. Hương giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã “nhuốm buồn vào lòng sông”. Động thái “lay” tự nó không vui cũng chẳng buồn, nhưng trong hoàn cảnh này, nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi như điệu “slow tình cảm dành riêng cho Huế’ (Hoàng Phủ Ngọc Tường) càng làm cho nỗi niềm thêm da diết. Hoá ra, không phải “dòng nước buổn thiu” mà chính “thi nhân buổn thiu”.

– Ở hai câu thơ sau, dòng Hương Giang vê’ đêm hiện lên ngập tràn ánh trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử, kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn. Cả dòng sông như được dát bạc, ánh lên, lộng lẫy và cũng huyền ảo lung linh. Nếu “thuyền ai” gợi bao ngỡ ngàng, bâng khuâng, vừa quen vừa lạ, man mác như điệu hò xứ Huế thì hình tượng “sồng trăng” lại như một nét vẽ thơ mộng, chất chứa cái thẩn thái, linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Sự kết hợp giữa “thuyền ai” và “sông trăng” đã tạo nên một hình tượng đẹp thi vị, gợi tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng, thân thương của Huế.

– “Thuyền”, “bến”, “trăng” là những biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi. Trăng là nhân chứng cho đôi lứa nguyện thề. Khi xưa, trong vườn Thuý ngập đầy ánh trăng, Kim – Kiều đã giao ước, thê’ nguyền. Trong ca dao, tình duyên của nam nữ cũng được giãi bày, ướm hỏi dưới trăng: Đêm trăng thanh anh mối hỏi nàng/ Tre non đủ lá đan sàng nền chăng?… Thuyền chở trăng là chở tình yêu. Bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có vượt thời gian để kịp cập bến bờ hạnh phúc hay không? Câu hỏi chất chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc của thi nhân. Ấn trong đó còn có sự mông lung, hồ nghi, thất vọng.

-> Khổ thơ thứ hai vẽ nên bức tranh xứ Huế ảm đạm, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi, yếu ớt nhưng cũng huyền ảo, thơ mộng, đồng thời toát lên những dự cảm hạnh phúc chia xa của nhà thơ.

3. Khổ thơ cuối

Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí.

– Trước hết là ở câu thơ đầu:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Khách đường xa là ai? Cầu thơ lặp lại hình ảnh ấy hai lần. Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ẫy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó – “mơ”.
CÓ thể khách đường xa là người đang sống ở Vĩ Dạ, cũng có thể là chính nhà thơ. Không ai có thể giải thích nổi, và cũng không cẩn giải thích. Chỉ biết rằng, khách đường xa được điệp lại gợi khoảng cách xa xôi, sự cách trở. Hình ảnh thơ rất ám ảnh người đọc và nó cũng như ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy thật hay mà không thể thay thế.

– Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn:

Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đày sương khói mờ nhân ảnh

Áo em có phải là áo của người con gái xứ Huế, hay là áo của người ở thôn Vĩ? Trắng quá nhìn không ra, thi nhân như đang sổng trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường. Đến cụm từ sương khói mờ nhân ảnh thì câu thơ càng cho thấy rõ hơn rằng cảnh vật và con người đã chìm dần vào mờ ảo.

– Điểu bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dẫu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hỏi ẩy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đểu là câu hỏi. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Có điểu, ở câu hỏi cuối này nó biểu hiện chút hoài nghi với tình yêu của ai kia (người xứ Huế), hoài nghi nên mới hỏi. Câu thơ còn cho thấy nỗi niềm thiết tha YỚi tình yêu, với cuộc đời của nhà thơ.

-> Ở khổ thơ cuối, hiện thực được cảm nhận, miêu tả trong cái hư ảo, mờ nhoè, càng lúc càng chìm dần vào cõi mộng. Thi nhân cảm nhận càng rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo của tình yêu, hạnh phúc.

IV. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT

– Sử dụng nhiều từ giau sức gợi tả:

+ Từ “mướt” trong cầu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt” là tính từ gợi tả sự bóng láng và mỡ màng, mềm mại trên bề mặt của thực vật, nhìn thấy thích mắt. Chỉ một chữ ấy thôi mà đã gợi tả được vẻ đẹp tinh khôi tràn đẩy sức sống của cảnh vườn. “Mướt” kết hợp với “quá” càng làm tăng thêm sắc thái biểu cảm của từ này.

+ Từ “buồn thiu” trong câu thơ “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” gợi nét buồn với vẻ thất vọng, mất hứng thú.

+ Từ “lay” thể hiện trạng thái chuyển động không ngừng, nhưng ở đây còn nhuốm sắc buồn từ sự chia li của cảnh vật, còn gợi cái oi ả, ảm đạm của một trưa vắng.

+ Chữ “kịp” gợi nỗi niềm của thi nhân, một dự cảm vê’ tương lai, một lối sống vội vàng để hưởng thụ được những gì tối thiểu nhất của cuộc đời, từ đó cho thấy vẻ đáng thương, tội nghiệp, đau khổ của con người.

– Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ sử dụng rất nhiều từ phiếm chỉ:

+ “Vườn ai”, “thuyền ai”, “ai biết”, “tình ai”: Những phiếm chỉ “ai” có tác dụng làm nhòe mờ các từ đi cùng nó, cho cảm giác như cuộc sống và tình yêu, những gì thi nhân đang hướng tới, đang khao khát cũng nhòa dẩn đi, mờ dần đi.

+ “Sông trăng đó”, “tối nay”, “ở đây”: Những từ “đó”, “đây” diễn tả sự mơ hồ vê’ không gian. “Đó” có thể ám chỉ thế giới ngoài kia, thế giới của sự sổng, của những điểu tốt đẹp mà nhà thơ bị số phận tước mất. “Đây” là thế giới trong này, thế giới của bóng tối và bệnh tật – nơi mà thi nhân đang sống ở trại phong Tuy Hòa. “Tối nay” là một sự mơ hổ vể thời gian. Những từ phiếm cKỈ này phủ lên bài thơ một màn sương mơ hồ của kí ức và tưởng tượng, làm cho tất cả nhòe dẩn đi, nhòa dẩn đi trong một thời gian miên man và một không gian mênh mang vô định.

+ Những từ phiếm chỉ xuất hiện là do cảm xúc của nhà thơ: bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm bưu thiếp từ phương xa gửi tặng, tấm bưu thiếp ấy đã làm trỗi dậy nỗi nhớ và cuộc sống mãnh liệt trong lòng thi nhân, từ đó từng hình tượng thơ đã ra đời. Tuy vậy, những hình tượng này là những hình tượng của trí nhớ, do trí nhớ tái tạo, cũng có thể là những hình tượng trong trí tưởng tượng, tất cả đều được hình thành trong tầm trí thi nhân, tầm trí của một người bị giam cầm trong bóng tối, chịu đựng những nỗi đau tột cùng, chứng kiến cảnh tâm hồn và thể xác đang dần tan rã, chính vì vậy mà chúng mơ hồ, mơ hồ do màn sương trí nhớ, do những nỗi đau.

– Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có những kết hợp từ ngữ độc đáo, mới lạ, gợi cảm:

+ “Nắng hàng cau” là nắng như thế nào? Là nắng len lỏi giữa hàng cau, hay hàng cau phủ đầy nắng? Sự kết hợp từ ngữ này gợi tả một bức tranh tuyệt đẹp của màu sắc và ánh sáng. Sắc vàng của nắng len lỏi giữa sắc xanh của lá. Nắng vì thế như xanh hơn, tươi hơn, đầy sức sống hơn. Còn lá vì thế cũng như lung linh, huyền ảo hơn. + “Bến sông trăng” là thế nào? Phải chăng là sông Ngân Hà trong truyền thuyết với vầng trăng lững lờ? Hay đó thật ra chính là một dòng sông trong kí ức nơi ánh trăng chiếu những vầng sáng bàng bạc trầm mặc như dát lên mặt sông một lớp bạc kì ảo? Dù thế nào thì hình ảnh bến sông trăng cũng mang một vẻ đẹp kì ảo, một vẻ đẹp huyền bí, diễm lệ.

– Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chỉ sử dụng duy nhất một từ Hán Việt, đó là từ “nhân ảnh” trong câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Đây là cách sử dụng từ mang dụng ý nghệ thuật. Tác dụng của từ Hán Việt là gợi một bầu không khí trang trọng, cổ xưa. Nét trang trọng, cổ xưa này mà từ “nhân ảnh” mang lại khiến cho cõi “sương khói” trong thơ ngoài nét mờ ảo, huyễn hoặc vốn có còn có thêm vẻ trầm mặc, u tịch, gợi sức ám ảnh lớn cho câu thơ.

HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1 (5 điểm). Đầy thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp vê’ một miền quê đất nước; là tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người.
Anh/ Chị hãy phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Xem toàn bộ phẩn III.
Câu 2 (2 điểm). Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).
Xem toàn bộ phẩn IV.

*** Xem thêm : Trọng tâm kiến thức cơ bản tác phẩm Tràng giang tác giả Huy Cận – Ôn thi THPTQG tại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận