Phân tích bài “Việt Bắc”- (P3) – Tài liệu ôn thi THPTQG Văn 12

Đang tải...

VIỆT BẮC

Tố Hữu

DÀN Ý PHÂN TÍCH CHI TIẾT.

1: 8 câu thơ đầu: Miêu tả cảnh chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

– Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng dặc biệt, đầy xúc động, bâng khuâng: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”…Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bảo kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia cay, đắng, ngọt, bùi, nay cùng nhau gợi lai những hồi ức đẹp đẽ, khắng định nghĩa tình thủy chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu lứa đôi. Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tố chức theo lối đổi đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đông vọng.

– Việt Bắc được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cánh mạng mà nó còn kết tinh những đặc sắc trong thể giới nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những đặc trưng về chất trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu, là đặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian trong ngôn ngữ thơ của Tố Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đen cho người đọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào đối với cuộc kháng chiến thần thánh của quân ta, lại vừa đem đến cho người đọc những rung cảm thấm mĩ hết sức mạnh mẽ.

– Người ta thường nói đến một đặc trưng nổi bật của thơ Tố Hữu, đó là chất trữ tình chính trị vĩ mỗi chặng đường thơ của Tố Hữu dường như gắn liền với mỗi chặng đường cách mạng của dân tộc ta, từ thuở “Từ ấy” cho đến “Một tiếng đờn” sau này. Nói như thế cũng là nói về Việt Bắc, bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời vợi của thơ Tố Hữu. Bởi vì bài thơ đã ra đời từ một sự kiện chính trị hết sức lớn lao trong đời sống dân tộc. Sự kiện các cơ quan trung ương Đảng, Chính phủ, các cơ quan kháng chiến, các cán bộ kháng chiến sau khi hòa bình lập lại đã từ giã Việt Bắc để về xuôi tiếp quản Thủ đô. Tố Hữu muốn thông qua Việt Bắc để dựng lại bức tranh tổng quát về cuộc kháng chiến chín năm rất đáng tự hào của dân tộc ta trên chiến khu Việt Bắc, lại vừa ghi lấy thời điếm chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với các cơ quan kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không làm bản tống kết về cuộc kháng chiến, không làm bản thông báo về sự kiện chính trị kia mà đã trữ tình hóa tất cả những nội dung thấm đẫm màu sắc chính trị ấy. Người ta đã có lí khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, nghĩa là từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà nhận thức những chân lí sống, chân lí cách mạng.

– Với ý tưởng trữ tình hóa sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, khi viết Việt Bắc, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi đe từ khúc hát đổi đáp ấy khơi gợi lại những kỉ niệm về những ngày tháng kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Đe rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế, ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy một cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa “mình” và “ta” vô cùng tha thiết, mặn nồng:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình đi mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ   nguồn.”

– Mới đọc bốn câu thơ trên, ta tưởng như nghe câu ca dao tình yêu thuở trước:

“Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.”

(Ca dao)

Hoặc:

“Mình về ta dặn câu này

Dặn dăm câu nhớ, dặn vài câu thương”.

(Ca dao)

-Tuy nhiên, đọc kĩ câu thơ của Tố Hữu, ta lại nhận ra tình nghĩa cách mạng đong đầy. Việt Bắc là quê hương cách mạng, là nơi che chở cho bộ đội trong những năm kháng chiến gian khố, thiếu thốn, liệu người ra đi còn nhớ hay không? Tố Hữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca đế cuộc chia tay trở nên đằm thắm như đôi lứa yêu nhau. Cách xưng hô “mình” và “ta” bình dị của lứa đôi đế gửi gắm tình cảm lớn lao trong thời đại mới. Mình về xuôi có nhớ tới mười lăm năm với biết bao gắn bó, ân tình, có nhớ tới không gian xa xôi mà gần gũi mang tính chất cội nguồn. Những chữ “mình” và “ta” từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến.

– Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của người dân Việt Bắc đối với cán bộ về xuôi, khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tô Hữu như muốn nói lòng người Việt Bắc thủy chung với cách mạng biết nhường nào. Ngay từ câu thơ mở đầu, trong sáu tiếng đã có tới hai tiếng “mình” thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với “mình’*’như đế nói lòng người Việt Bắc không nguôi nhớ người về xuôi, nhưng lại cũng xoáy sâu vào kí ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ “mình” – “ta” đã như quấn quýt lấy nhau không muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ được tạo chủ yếu bởi thanh bằng: “Mình về mình có nhớ ta”, với một chữ “ta” ở cuối làm cho tình cảm nhớ thương vừa lắng đọng vào lòng người trong cuộc chia li lại vừa lan xa mênh mang.

– Kết câu của hai câu thơ mở đầu là kết câu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi khơi gọi những kỉ niệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của mười lăm năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lí trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỉ niệm xúc động của mười năm năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc đế làm nên một Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tố Hữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ “mười lăm năm ấy” gợi ta nhớ tới “cái thuở ban đầu” của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ:

“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nghìn năm hồ dễ đã ai quên.”

– Người về làm sao có thể quên được “mười lăm năm ấy” của mối tình đầu giữa cách mạng và Việt Bắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm “Nghìn năm hồ dễ đã ai quên”, câu thơ còn được tiếp tục với những từ “thiết tha mặn nồng”. Một câu thơ viết về mười lăm năm của cách mạng, của kháng chiến mà nồng nàn, tha thiết, trữ tình biết bao.

– Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô hết sức tình tứ “mình” và “ta” nhưng hai dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của những kỉ niệm suốt mười lăm năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược và miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông vói nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông suối, cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự hòa hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa “mình” với “ta” là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước. Hai câu thơ lục bát có bốn chữ “mình” và một chữ “ta” nhằm đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian và đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại. Neu câu hỏi thứ nhất: “Mình về mình có nhớ ta” gợi biết bao nhiêu “thiết tha, mặn nồng” thì câu hỏi thứ hai “Mình về mình có nhớ không” lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm về sự trang nghiêm trong giọng điệu thơ. Mình về miền xuôi liệu có nhớ những ngày tháng gian khổ, có nhớ núi, nhớ nguồn? Có nhớ về cội nguồn chung thủy? Đây là lẽ sống cao cả đă từng xuất hiện trong thơ Tố Hữu:

“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay

Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm.”

– Cái đặc sắc trong câu thơ của Tố Hữu không chỉ thể hiện qua kết cấu câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng .

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

-Ta ngỡ như trong câu ca dao:

“Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Qua cầu ngả nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.”

(Ca dao)

– Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca. Bốn câu thơ như một bài ca dao, chất chữ tình gắn liền với những băn khoăn của người ở lại, của Việt Bắc vô cùng thủy chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói đế khơi nguồn cho cảm xúc xuyên suốt Việt Bắc hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong nhũng câu thơ đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.

– Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng bốn câu thơ để diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với bốn dòng thơ mở đầu và sự tương xứng của lòng người về xuôi với Việt Bắc. Ở bốn dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với tha thiết, cái bịn rịn không nỡ ròi chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như tiếng hát của đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một câu thơ rất tình tứ:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn”

– Chỉ một chữ “ai” thôi đã đủ làm say đắm lòng người. Chữ “ai” đâu phải để hỏi vì muốn biết ai, chữ “ai” đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đôi tượng không xác định bởi ở đây cả “ta” và “mình” đang cất lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ “ai” chỉ là một cách nói de tăng thêm tình cảm yêu thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niêm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình đế đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thủy chung, đế rồi bày tỏ tình cảm của mình. Đó là trạng thái:

“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

– Những chữ “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi. Bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, với người, với cuộc sống đã trở thành kỉ niệm của những ngày kháng chiên. Những kỉ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về xuôi. Bước chân vê xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt Bẳc. Còn “bôn chồn” là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương đã mười lăm năm ấy. Mỗi bước đi là mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước đi là mỗi bước canh cánh trong lòng bởi nỗi niềm thương nhớ ấy. Người Việt Bắc nói “thiết tha”, người ra đi lắng nghe “tha thiết” – sự hô ứng ngôn từ này đã tạo nên mạch ngầm tri ân sâu sắc. Vì thế câu hỏi của trái tim đã tìm được tiếng đồng vọng của trái tim. Người ra đi thấu hiểu và cảm nhận được nỗi nhớ nhung day dứt trong lòng người ở lại.

– Với câu thơ thứ ba ở khổ thơ này, Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Với những dòng thơ mở đầu từ trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ dành riêng cho “mình” và “ta”, của đôi lứa yêu nhau. Đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc đối với người kháng chiến bằng một hình ảnh hoán dụ:

“Áo chàm đưa buổi phân li”

– Hình ảnh chiếc áo chàm bất ngờ hiện ra trong buổi chia tay khiến nỗi xúc động dâng tràn. Đây là biểu tượng đơn sơ, mộc mạc về đồng bào dân tộc miền núi nghèo khổ nhưng chan chứa nghĩa tình. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc, vừa khắc họa tấm lòng son sắt của họ với cách mạng và kháng chiến.

– Cả Việt Bắc như ngẩn ngơ trong cuộc chia tay lịch sử ấy. Hình ảnh áo chàm dùng để chỉ hình ảnh của Việt Bắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái ngấn ngơ của Việt Bắc hiện ra trong những chữ “đưa buổi phân li”. Trong khi đó câu thơ:

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”

– Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút xúc động của người về xuôi mà còn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân người về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu thơ. Câu thơ lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2:

“Cầm tay nhau/biết nói gì/hôm nay…”

Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ đến cảnh chia tay trong câu thơ:

“Bước đi một bước, giây giây lại dừng.”

– Sự thay đối nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đối mới với cảm xúc của người đọc. Câu thơ vì thế làm cho người dọc không rơi vào cái tiết tấu quá đều đặn qua suốt tám dòng thơ mà trở nên nhàm chán.

– Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong-cử chỉ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Câu thơ gợi nhắc tới cái bắt tay của người chiến sĩ nông thôn trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

(Đồng chí – Chính Hữu)

– Những cái bắt tay không lời ấy chất chứa biết bao nghẹn ngào, thương nhớ đầy vơi. Các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đã diễn tả tinh tế nỗi bịn rịn nhớ nhung trong lòng người và gợi tả những bước chân lưu luyến ngập ngừng của người ra đi. Bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng yêu thương của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện chân thực khung cảnh chia li lưu luyến vấn vương sâu nặng tình nghĩa trong ngày chiến thắng.

Xem thêm: Phân tích bài “Việt Bắc”- (P4) – Tài liệu ôn thi THPTQG Văn 12 tại đây. 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận