Hướng dẫn đọc hiểu và phân tích tác phẩm Vợ Nhặt – Kim Lân – Ôn thi THPTQG

Đang tải...

I. XUẤT XỨ

Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).

II. TÓM TẮT

Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô “vợ nhặt” đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

III. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ

– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò của người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt vợ”. Bởi dựng vợ gả chổng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa. 

– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái oăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo vê’ làm vợ. Điểu này thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan để tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

IV. TÌNH HUỐNG CỦA CÂU CHUYỆN

– Tình huống vừa éo le vừa thương tâm.

+ Tính chất éo le và thương tâm trước hết bộc lộ ngay ở nhan để của cầu chuyện: Vợ nhặt. Thường thì người ta chỉ nhặt những đồ vật bị bỏ rơi chứ không ai lại đi nhặt… vợ. Ấy vậy mà Tràng – một nông dân xấu trai, dở hơi, lại là dân ngụ cư (vốn bị khinh rẻ), đang bị ế vợ, ngay giữa lúc đói kém lại nhặt được vợ, nghĩa là có một cô vợ theo không chứ chẳng cần phải cưới cheo gì.

+ Trong những ngày đói kém hãi hùng năm ấy, từng đoàn người rách rưới, đi xin ăn, từ những vùng Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá… “đội chiếu lũ lượt bổng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Cảnh chết đói đang diễn ra khắp nơi: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

+ Người đàn bà mà Tràng nhặt vê’ làm vợ cũng nằm trong đám hành khất tha hương ấy. Ba hôm trước, lúc đẩy xe giúp Tràng, thị còn tít mắt cười tình với hắn thì hôm nay đã hiện nguyên hình là một con ma đói: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi. Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Rơi vào cảnh ngộ ấy, chị đã buộc phải trở thành vợ Tràng bởi đó là cách duy nhất để chị trốn chạy khỏi cái chết đã kể cận.

+ Cái chuyện tỏ tình xưa nay vốn mang màu sắc lãng mạn, tình tứ thì giữa lúc đói khát, nó trơ trọi chỉ còn là chuyện lăn xả vào miếng ăn. Cái đói đã đẩy người lao động phải từ bỏ cả lòng tự trọng và phẩm giá của mình… Và cái chuyện dựng vợ gả chồng – chuyện trăm năm của một đời người cũng đã được quyết định nhanh chóng chỉ bằng một câu nói tầm phơ tầm phào. Người đàn bà bị rơi vào tình thế trở thành “vợ nhặt” này không còn sự chọn lựa nào khác.

+ Tình huống dựng vợ gả chồng trớ trêu, xót xa ấy đã thể hiện cái nhìn đẩy cảm thông của nhà văn, đổng thời cũng nói lên một cách thật đầy đủ về số phận bi thảm của người nông dân nước ta trước Cách mạng tháng Tám.

+ Tình huống truyện càng éo le và thương tâm hơn nữa khi cái đám cưới lẽ ra là để mang lại niềm vui hạnh phúc cho con người thì nay chỉ mang lại cho họ những lo âu thấp thỏm, bởi nó diễn ra ngay trong sự rình rập nghiệt ngã của cái đói, cái chết. Trong tình cảnh đói khát hiện tại, ngay đến bản thân còn chưa biết lấy gì để sống, giờ lại thêm một miệng ăn…

+ Mọi người đều ái ngại cho cái niềm hạnh phúc trớ trêu ấy của đôi vợ chổng trẻ: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Những người trong cuộc lại càng phấp phỏng, lo lắng hơn. Sau cái phút chậc lưỡi đánh liều lấy vợ, chính Tràng cũng không khỏi giật mình khi nghĩ đến cảnh ngộ không còn gì ăn mà sống của ha con người.

+ Người “vợ nhặt” của Tràng những tưởng đánh liều theo không người đàn ông xa lạ để mong tránh khỏi chết đói, nào ngờ thấy tình cảnh nhà Tràng cũng không sáng sủa gì…

—» Đặt các nhân vật vào trong một tình huống vừa éo le vừa thương tâm, Kim Lân đã miêu tả thành công “diễn biến tâm lí và hành động” của các nhân vật theo chiều hướng tích cực, có chiểu sâu. Và chính những trang miêu tả tâm lí sắc sảo, thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả ấy đã làm cho thiên truyện có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự.

V. NHÂN VẬT

1. Nhân vật “thị” (người “vợ nhặt”)

– Khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối tăm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Thị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… một con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của thị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

–  Khi chưa theo Tràng về làm yợ, cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của thị:

+ Lẩn gặp thứ nhất, thị có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ: “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy!”; “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy!”

+ Lần gặp thứ hai, chần dung của thị khiến Tràng không nhận ra: “Hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị cong cớn trong lời nói, YÔ duyên trong hành động “sà xuống… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng, theo không một người đàn ông vể làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vi đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức sống mãnh liệt.

– Miêu tả nhân vật “thị”, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng ba – bốn bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận.

+ Về đến nhà, trông nếp nhà vẹo vọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương.

– Tuy nhiên, sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân.

+ Một mặt, nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến con người như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được.

+ Mặt khác, qua người vợ nhặt của Tràng, nhà văn đã nói lên một sự thật ở đời, đó là, trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

2. Bà cụ Tứ

– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ – mẹ Tràng trở vế’. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, đã được Kim Lần thể hiện thành công qua diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

– Ngạc nhiên và bất ngờ là tầm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải có chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rổi bà “đứng sững lại” khi nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà, mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của mình nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình như nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đẩu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.

– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “nhà tôi nó mới vể làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi, mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chổng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi… Còn mình thì..Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người mẹ già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, cảm thông.

Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt là: “ừ, thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng. Câu nói ấy của bà làm cho cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường, ở chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên, an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn, đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.

– Nhưng sau những lời động viên ấy, ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điểu bà lo không phải là “sự hợp hay không hợp” giữa hai con mà là cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời”, chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên, an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước.

+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắm quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hi vọng đời sẽ có cơ khấm khá.

+ Trong bữa ăn đẩu tiên, mâm cơm ngày đói sao mà thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và thêm món chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con – những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, “ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng vào ngày mai. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất: “Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chổi nảy cây”.

– Niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dổn dập vội vã đưa bà cụ trở về với thực tại, với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

—» Với sự thấu hiểu, sự đổng cảm, Kim Lần đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dầu, mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống dù rằng hoàn cảnh xã hội bấy giờ vẫn vô cùng tăm tối.

3. Nhân vật Tràng

– Tràng là một người lao động nghèo khổ, hơi bất bình thường, lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiểu, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm, than thở những điều hắn nghĩ”.

– Cuộc sống lao động vất vả, nghèo đói đã in hằn dấu ấn trên từng bước đi của hắn, đè nặng xuống cái lưng to nặng của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi vẽ đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn”. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ có vợ. Nhưng rồi một hôm “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!…

Thế mà lại có một người phụ nữ ra đẩy xe với hắn. Rồi mấy hôm sau gặp lại, hắn đãi người phụ nữ ấy bốn bát bánh đúc và người phụ nữ ấy đổng ý theo hắn về làm vợ. Và “việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng”.

– Trước tình cảnh ấy, lúc đầu Tràng đâm lo, đâm sợ, nhưng rồi cái khát vọng về một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc bừng dậy mãnh liệt trong lòng Tràng, xua tan bao nỗi lo sợ ấy. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.

– Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người “vợ nhặt” của mình. Khuôn mặt Tràng bây giờ tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù cái đêm đẩu tiên với người “vợ nhặt” ấy đi qua trong “tiếng hờ khóc tỉ tê” và “tiếng quạ trên mấy cầy gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” như tiếng gọi của thần chết.

– Và sáng ra, Tràng bỗng vừa chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đểu được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…” Tràng nhìn người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình dị nhưng đã gợi lên trong lòng Tràng một sự cảm động sâu sắc. Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc. Trong lòng Tràng lại trỗi dậy lòng yêu thương, gắn bó với người vợ, với gia đình.

– Tràng lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh phúc cho tương lai: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này…”.

—> Dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát vể cuộc sống gia đình hạnh phúc vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng, nó vẫn luôn bùng lên mãnh liệt.

VI. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO

1. Giá trị hiện thực

*Hiện thực về bức tranh nạn đói

– Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã đưa vào truyện thứ ánh sáng của hoàng hôn xám xịt. Theo bước chân Tràng từ phố chợ đến miền quê, người chết rải rác nằm còng queo bên lề đường, người sống thì đi lại dật dờ, mặt mày xanh xám như những bóng ma, những đứa trẻ của xóm ngụ cư ngồi ủ rũ ở những xó đường không buồn nhúc nhích, không khí vấy lên mùi ẩm thối, trên cây gạo đầu làng tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

– Cả một vùng như biến thành bãi tha ma trong không gian đầy mùi tử thi. Một cõi dương có hơi ám của cõi âm. Thời gian và không gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mĩ, nó báo rằng đó là thời điểm con người đang đứng ở ranh giới giữa ánh sáng với bóng tối, giữa trần gian với địa ngục. Cả dân tộc đang đứng trước hoàng hôn của cuộc đời, đứng mấp mé bên bờ vực thẳm. Điểu đó cho thấy sự tàn phá ghê gớm của nạn đói, phản ánh một hiện thực vô cùng thê thảm.

*Hiện thực về thân phận người lao động

– Trong hoàn cảnh ấy, thân phận con người thật là bèo bọt. Người đàn bà Tràng gặp ngoài kho thóc, quần áo rách tả tơi, thân hình gầy xọp vì đói. Người đàn bà này theo không Tràng mà chẳng còn chút sĩ diện, danh dự. Đó là một sự thật, một hiện thực mỉa mai, cay đắng mà cũng đầy xót xa. Thân phận con người chẳng khác gì cỏ rác.

– Mẹ con Tràng chỉ còn cháo cám cầm hơi, nhà cửa chẳng khác gì gia cảnh của chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố). Họ đứng trước tương lai mờ mịt, nạn đói đang đe dọa đến sinh mạng. Đó là hiện thực về thân phận bọt bèo, hẩm hiu của những người lao động trước Cách mạng tháng Tám.

—» Theo bước chân Tràng, truyện mở ra một hiện thực thê thảm, một thế giới điêu tàn, xác xơ vì sự tàn phá của nạn đói. Số phận cả dân tộc thật tối tăm, buồn não cũng bởi do bọn thực dân, phát xít gây nên. Truyện tuy không đề cập trực tiếp đến tội ác của chúng nhưng sức tố cáo vẫn vô cùng sâu sắc, mạnh mẽ.

2. Giá trị nhân đạo

– Trong cảnh bần cùng đói rách, người ta có thể sống lạnh lùng, ích kỉ, thậm chí tàn nhẫn, nhưng người lao động Việt Nam vẫn sống nhân hậu, chan hòa yêu thương, vẫn ngời sáng tấm lòng nhân đạo. Từ trong tăm tối, đói nghèo vút lên ánh sáng của lương tri, của tinh thẩn tương thân tương ái. Đó là phần đẹp nhất, là giá trị tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.

– Kim Lân đã hết lời ca ngợi tấm lòng tốt đẹp của mẹ con Tràng.

+ Nhìn bề ngoài có vẻ xấu xí nhưng Tràng có cách ứng xử rất đẹp. Khi đẩy thuê xe thóc ra kho, thấy người đàn bà đói thì Tràng cho ăn, dù anh ta chẳng có gì dư giả. Hành động có vẻ ngẫu hứng nhưng cũng thể hiện sự nhường cơm sẻ áo. Trong nạn đói, miếng ăn là cả vấn để sinh mạng nên hành động kia là một nghĩa cử cao đẹp. Người đàn bà theo Tràng vê’ làm vợ cũng chấp nhận, mặc dù anh ta cũng hơi sợ. Tấm lòng cưu mang này .còn có một nguyên cớ thật đẹp ở bên trong: đó là niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình. Tâm tư, tình cảm của Tràng đặt trong tình cảnh này thật đáng quý, đáng trân trọng. Dù nghèo nhưng sống nhân ái nên Tràng đã được bù đắp. Sáng hôm sau, Tràng cảm thấy hạnh phúc thực sự. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, sự chuyển biến ý thức này có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vì cái đói không làm người ta trở nên quay quắt mà làm thức dậy những phẩm giá tốt đẹp.

+ Bà cụ Tứ là người mẹ có tấm lòng thật cao cả. Việc Tràng lấy vợ làm bà ngạc nhiên đến sững sờ, nhưng nghĩ lại bà đã hiểu ra. Khi hiểu ra sự tình, lòng người mẹ nghèo cảm thấy xót xa, nghẹn ngào nước mắt. Bà thương cho số kiếp nghèo, bèo bọt, thua thiệt của con trai nên mới lâm vào cảnh đi nhặt vợ… Bà tủi thân già không lo được cho con, hận mình không tròn bổn phận làm cha, làm mẹ nên con trai mới đến nông nỗi này. Thương con bao nhiêu, bà thương người bấy nhiêu. Bà nhìn người đàn bà xa lạ kia với ánh mắt ái ngại, cảm thông và ý nghĩ xuất phát từ tấm lòng bao dung, nhân hậu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..Thế nên, cụ sẵn sàng cưu mang, chấp nhận nàng dâu mới. Nghĩ đến cảnh sống hiện tại, cụ vừa mừng vừa lo cho hạnh phúc của hai con, nhưng cụ lại tin tưởng: ai giàu ba họ, ai khó ba đời, rồi ra con cái chúng mày về sau…

+ Người vợ nhặt, bị nạn đói khiến cho “tơi tả”, nhưng chị cũng cố bám víu, cố vươn lên tìm lấy sự sống, khát khao được sống, được hạnh phúc. Khi trở thành người thần trong gia đình Tràng, ở chị toát lên vẻ đẹp của người vợ hiển, dầu thảo.

—» Thông qua các nhân vật (Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt), Kim Lân đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam. Họ luôn sống nhân ái, giàu tình cảm, trong hoạn nạn đã nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc nhau, trong đói nghèo vẫn luôn khao khát tình thương, mái ấm gia đình, vẫn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp.

– Khi cuộc đời của gia đình nông dân này chưa tìm được lối thoát thì Cách mạng đã đến với họ. Hình ảnh đoàn người đi trên đê Sộp với lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong sự tiếc rẻ của Tràng, thì chắc chắn lần sau anh sẽ đi cùng với họ. Anh sẽ hòa chung với dòng người đói khổ để mang vê’ ánh sáng hạnh phúc no ấm và cả một tương lai tươi đẹp. Cách kết thúc có hậu đã ngầm ca ngợi tư tưởng nhân đạo của cuộc cách mạng. Trong tác phẩm, Kim Lân còn kín đáo bộc lộ niềm đồng cảm của mình đối với nhân vật qua cách kể chuyện, cách xây dựng hình tượng nhân vật.

– Giọng kể chậm rãi, tù tốn, nhẹ nhàng, cái nhìn của người kể gần gũi, cảm thông, cách miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc; chứng tỏ nhà văn đã nhập thân vào nhân vật nên mới hiểu được những ngóc ngách trong tầm tư thầm kín của họ, mới lắng nghe được khát vọng cùng bao nỗi buồn vui của mẹ con Tràng.

– Tác giả xây dựng nhân vật Tràng có vẻ ngờ nghệch nhưng chưa hẳn là thô kệch, không thô lỗ, hồn nhiên, vô tâm mà ngược lại sống rất mực tình cảm. Còn người vợ nhặt có chút điêu ngoa nhưng chưa phải đanh đá, nanh nọc; có chút lẳng lơ nhưng chưa gọi là hư hỏng. Ranh giới giữa hai khái niệm trên rất mỏng, nếu ngòi bút thiếu bản lĩnh, rơi vào sa đà thì nhân vật sẽ không chiếm được cảm tình nơi người đọc. Giữ được điều ấy chứng tỏ tác giả luôn có một lập trường vững vàng và xây dựng nhân vật của mình bằng cả tấm lòng.

-» Truyện lên án chế độ thực dân phát xít đã gieo rắc đau thương cho nhân dân ta; đồng cảm với cảnh đói nghèo, thân phận đáng thương; ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động; tin tưởng vào phẩm giá và khả năng vươn lên của con người… là những biểu hiện cảm động của chủ nghĩa nhân đạo.

VII. NGHỆ THUẬT

+ Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

+ Lối trẩn thuật tự nhiên, hấp dẫn, làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

+ Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.

+ Nhân vật được khắc hoạ sinh động, đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế.

+ Ngôn ngữ: bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kĩ lưỡng, có sức gợi và đậm chất văn hóa Bắc Bộ.

VIII. CHỦ ĐỀ

Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân muốn khẳng định: trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết cận kề, những người lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1. (2 điểm). Nêu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Xem mục 1
Câu 2. (2 điểm). Nêu ý nghĩa nhan đê’ truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Xem mục 3
Câu 3. (5 điểm). Phán tích tình huống truyện độc đáo trong Vợ nhặt (Kim Lần).
Xem mục 4
Câu 4. (2 điểm). Không khí nạn đói năm 1945 được nhà văn gợi lên bằng những chi tiết đặc sắc nào?
Xem mục 6.a
Câu 5. (5 điểm). Phân tích nhân vật người “vợ nhặt” trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân.
Xem mục 5.a
Câu 6. (5 điểm). Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ. Qua đó anh/ chị hiểu gì về tấm lòng người mẹ nghèo?
Xem mục 5.b
Câu 7. (5 điểm). Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt.
(Dựa vào các ý chính của mục 6.b và phân tích qua các nhân vật bà cụ Tứ, chị vợ “nhặt”.)

***Xem thêm : Hướng dẫn đọc hiểu và phân tích tác phẩm Vợ chồng A PHỦ – Tô Hoài – Ôn thi THPTQGtại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận