Hướng dẫn đọc hiểu và phân tích tác phẩm Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành – Ôn thi THPTQG

Đang tải...

I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC

– Tác phẩm được viết năm 1965, khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Ngãi, sau khi phong trào đồng khởi vũ trang của nhân dân Nam Bộ diễn ra được một thời gian.

– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.

II. TÓM TẮT

Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác” của giặc, đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xô Man. Sau ba năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó, Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt, Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau ba năm anh lại vượt ngục Kon Tum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dần làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó, anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.

III. NHAN ĐỂ

– Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rùng xà nu là linh hổn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này. Hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm, đóng vai trò “chủ âm” cho khúc ca hùng tráng về dân làng Xô Man.

– Rừng xà nu là hình ảnh trung tầm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do. Hình ảnh rừng xà nu còn là biểu tượng cho cuộc sống đau thương và phẩm chất ngoan cường bất khuất của nhân dân làng Xô Man.

Hình ảnh rừng xà nu tạo nên cái phông nền vời vợi chất thơ hùng tráng đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.

– Nhan để còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.

IV. HÌNH TƯỢNG CÂY XÀ NU

*Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.

*Nghĩa biểu tượng:

– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên

+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xô Man.

+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man.

+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xô Man đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ. Cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào: “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thẩn của mảnh đất này.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng

+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.

+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lí tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đổng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.

+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cầy xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của những thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

+ Sự tổn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và ý chí vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.

– Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả xuyên suốt trong toàn bộ câu chuyện. Nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc truyện ngắn bằng hình ảnh rừng xà nu “bát ngát đến tận chần trời” mà còn nhắc đến nó gần hai mươi lần: “rừng xà nu”, “cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”, “đuốc xà nu”… Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà ưng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man. Đêm đêm, cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu… Bởi vậy, tác giả đặt tên tác phẩm là Rừng xà nu rất hợp lí.

*Nghệ thuật miêu tả:

+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, lúc lại đặc tả cận cảnh một số cây riêng rẽ.

+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, ngào ngạt mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng.

+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sự sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên, đồng thời gợi ra nhiểu suy tưởng sâu xa về con người và đời sống.

+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rổi khi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy gợi cho ta ý nghĩ: cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Đó có thể còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những năm tháng chống đế quốc Mĩ xâm lược.

V. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TN

– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kinh”. Bởi theo Tnú, những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.

+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.

– Tnú là người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng

+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng chỉ khi nào được phép của cấp trên anh mới về thăm.

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: Khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”.

Một trái tỉm yêu thương và sục sôi căm giận

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của người dân làng Xô Man.

+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù: thù của bản thân; thù của gia đình; thù của buôn làng.

Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời

+ Khi lành lặn: Đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình, thủy chung. Đôi bàn tay chú bé mổ côi nắm lấy tay cô bé Mai chăm chỉ chặt củi, xách nước, lên rẫy trổng tỉa, xách xà lét giấu gạo đi nuôi cán bộ Quyết. Đôi bàn tay Tnú cầm viên phẫn bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc Linh vê’ tập viết chữ, mở dần cánh cửa cuộc đời để đến với cách mạng…

+ Khi bị thương: Đôi bàn tay là hiện thân của mất mát đau thương, ghi lại chứng tích tội ác mà kẻ thù đã gây ra. Mười đầu ngón tay Tnú đều cụt một đốt.
Mẹ con Mai chết còn Tnú thì bị giặc bắt tra tấn. Bọn thằng Dục tàn nhẫn tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn giẻ lên mười đầu ngón tay anh, đốt cháy rừng rực.

+ Cuối cùng, đó là bàn tay cầm vũ khí chiến thắng kẻ thù, đôi bàn tay của ý chí quật cường, tinh thần dũng cảm, bất khuất của người cộng sản: Ngọn lửa của âm mưu thâm độc, của tội ác dã man đã không đốt cháy được chất vàng mười trung thành, bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi Tây Nguyên. Lửa hận dâng lên ngút ngàn, đốt cháy tâm can Tnú, truyền từ đôi tay lên đôi mắt “ở chỗ hai con mắt anh bầy giờ là hai cục lửa lớn”. Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương và sự căm hờn. Đôi bàn tay với ngón tay chỉ còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường chiến đấu. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”, chân lí này giúp người ta ý thức được tầm quan trọng của vũ khí, không thể không cầm vũ khí, nhưng cũng không nên ỷ lại vào vũ khí, cái quyết định cuối cùng vẫn là đôi bàn tay con người. Chính vì thế, Nguyễn Trung Thành đã cẩn thận kể thêm chi tiết Tnú dùng hai bàn tay không, đôi bàn tay chỉ còn lại hai đốt để xiết cổ tất cả những kẻ thù tàn ác hơn cả dã thú như bọn thằng Dục.

Có thể nói, bàn tay Tnú biểu tượng cho sức mạnh của khối đoàn kết cộng đổng, sự gắn bó mạch sống của mảnh đất, rừng cây và sức sống con người. Đó là đôi bàn tay huyền thoại, vô địch trước sức mạnh của mọi kẻ thù.

Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cẩm giáo”.

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ chân lí (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự minh chứng cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.

+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô Man nói riêng và người dần Tây Nguyên nói chung. Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giàu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên.

Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện con đường cách mạng của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: đó là cân phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

VI. KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN

 Trước hết, nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học. Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc. Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng của cộng đồng hơn là lợi ích và khát vọng của cá nhân. Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng. Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với cảm hứng lãng mạn.

– Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học từ năm 1945 đến năm 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

– Trong tác phẩm Rừng xà nu, khuynh hướng sử thi được thể hiện ở việc lựa chọn đề tài, quá trình xây dựng nhân vật và nghệ thuật sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm…

+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xô Man không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.

+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít – đểu là những cá nhân anh hùng, kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…)
+ Truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đểu có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người cùng viết ra. Bản trường ca của núi rừng khống chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng.

+ Không gian nghệ thuật: Rộng lớn.

+ Cách kể chuyện: Được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng; đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều quây quẩn bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm.

+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.

VII. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT

+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật).

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: Giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

VIII. CHỦ ĐỀ

Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đổng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể chiến thắng được bạo lực phản cách mạng.

HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1. (2 điểm). Nêu hoàn cảnh ra đời truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành). Xem mục 1
Câu 2. (2 điểm). Nêu ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành). Xem mục 3
Câu 3. (2 điểm). Cảm nghĩ của anh/ chị về hình ảnh đôi bàn tay Tnú.
Xem mục 5
Câu 4. (2 điểm). Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Xem mục 7
Câu 5. (5 điểm). Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 5
Câu 6. (5 điểm). Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 4
Câu 7. (5 điểm). Suy nghĩ của anh/ chị vê’ câu nói của cụ Mết “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo!” Làm sáng tỏ điểu đó qua cuộc đời của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 5

***Xem thêm : Hướng dẫn đọc hiểu và phân tích tác phẩm Vợ Nhặt – Kim Lân – Ôn thi THPTQG tại đây

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận