Giúp em học tốt Ngữ Văn 8 – Tác phẩm “Lão Hạc”

Đang tải...

Đọc hiểu tác phẩm “LÃO HẠC”

Nam Cao

Vài nét về tác giả, tác phẩm

Nam Cao (1917 – 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam.

Làng quê Đại Hoàng của Nam Cao là một vùng xa phủ, huyện nên bọn hương lí, cường hào trong làng hoành hành ngang ngược. Bọn nhà giàu trong làng thường kiện tụng, tranh giành lẫn nhau theo kiêu cá lớn nuốt cá bé.

Nam Cao đã viết những việc thực xảy ra tại làng quê mình trong nhiều trang sách.

Bản thân nhà văn sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sông chật vật. Nam Cao đã từng rời bỏ làng quê nghèo Đại Hoàng vào Sài Gòn kiếm sống mang theo nhiều hoài bão lớn lao. Nhưng cuối cùng, bệnh tật buộc ông trở về nơi sinh ra mình.

Nam Cao viết về hai đề tài chính: nông dân và người trí thức nghèo bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo mang tính sáng tạo cao.

Nam Cao am hiểu và thấm thìa cuộc sống của người tiêu tư sản trí thức nghèo, bởi chính ông củng từng là một thầy giáo khổ trường tư. Tác phâm của ông đã ghi lại trung thực cuộc sống quẩn quanh, mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản, ghi đậm dấu ấn về một thời kì đen tối của xã hội nước ta trước năm 1945.

Với đề tài người nông dân, các tác phẩm của ông phần lớn ra đời vào những năm 1940 – 1945. Đó là dấu ấn của thời kì đen tối xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao viết về những chuyện hằng ngày, rất đời thường: đời sống khó khăn, thóc cao gạo kém, con người phải vật lộn để kiếm sống…

SỐ phận người nông dân trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao được đặt vào những thử thách khốc liệt của cảnh nghèo đói. Và không ít nhân vật đã bị tha hoá, biến chất, bị xô đẩy đến cái chết đau đớn, xót xa: bà cái Tí (Nghèo); anh Đĩ Chuột (Nghèo); Chí Phèo (Chí Phèo)… Song, trong cái hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, nhiều người lại giữ được phẩm chất đáng quý như lão Hạc (Lão Hạc)…

Nam Cao viết về người nông dân với một thái độ trân trọng, thông cảm và thương xót. Phần lớn các nhãn vật trong truyện ngắn của ông bị đày đoạ, chà đạp nhưng vẫn giữ được nhân cách, phẩm hạnh của mình. Những truyện ngăn viết về đề tài này mang ý nghĩa tố cáo xã hội sâu sắc và đậm chất nhân văn.

Truyện “Lão Hạc” là một trong số truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân. Cái chết của lão Hạc vữa mang giá trị tố cáo xã hội sâu săc, vừa là tiếng nói nhân đạo của nhà văn Nam Cao về số phận con người.

1. Câu hỏi 1 (SGK, trang 48)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc kĩ đoạn văn “Cậu Vàng đi đời rồi… nỡ tâm lừa nó” chứ ý đến lòi nói, cử chỉ, nét mặt nhân vật để thấy được tâm trạng của lão Hạc khi bán chó.

b) Gơi ý trả lời

Trước khi bán chó, lão Hạc đã kể với ngưòi hàng xóm rất nhiều lần “có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ” nên nhân vật ông giáo dửng dưng với câu chuyện vì “Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi”. Lão kể về việc bán chó nhiều lần vì lão băn khoăn, đắn đo trước quyết định ấy. Thế rồi, hoàn cảnh khôn cùng, lão Hạc bị ốm hai tháng mưòi tám ngày làm gia tài khánh kiệt, bão đến làm hỏng hoa màu. Sau trận ốm, lão già yếu hẳn đi, không ai thuê mướn nữa. Giá gạo lại cao. Lão và con chó mỗi ngày hết ba hào gạo mà “vẫn đói reo đói rắt”.

Lão Hạc buộc phải bán “cậu Vàng” mà lão yêu quý như đứa cháu nội. Nhưng sau khi bán chó, lão Hạc dằn vặt, đau đớn vì mình là kẻ lừa gạt, trót lừa một con chó, lão Hạc tìm gặp ông giáo hàng xóm để trút bầu tâm sự, lão “hu hu khóc…”. Lão Hạc hình dung con chó oán hận, trách móc: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Thi ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”, mà day dứt trong lòng.

Lão đã dành tình cảm cho con chó như một ngươi bạn, một ngưòi thân, gọi con chó bằng cái tên âu yếm “cậu Vàng”. Lão ăn gì thì cho nó ăn đó, tâm sự với nó mọi nỗi niềm như với người thân. Đến lúc túng quẫn, lão Hạc băn khoăn, đắn đo nhiều lần khi phải bán con chó.

Qua đó, ta thấy lão Hạc là một lão nông nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, nhân hậu.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 48)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc truyện ”Lão Hạc” để tìm ra nguyên nhân cái chết của lão Hạc, đồng thời chú ý đến chi tiết lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo (gửi vườn cho con trai, gửi tiền lo hậu sự cho lão) để thấy được nét đẹp trong tâm hồn nhân vật.

b) Gợi ý trả lời

Cái chết của lão Hạc đã để lại trong lòng ngưòi đọc một nỗi buồn khôn nguôi, nỗi ám ảnh sâu sắc. Một con người giàu tình cảm, nhân hậu như lão Hạc mà phải chết trong sự đau đớn, vật vã. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã gây ra cái chết của lão Hạc. Vì nghèo khó, lão đã không có tiền cưới vợ cho con trai, lão buộc phải bán “cậu Vàng” – người bạn gắn bó hằng ngày. Lão Hạc yêu thương con hết mực, chấp nhận sống trong cảnh túng thiếu chứ nhất định không bán ba sào vườn của con “cái vườn này là của con ta… của mẹ nó tậu thì nó hưởng”.

Trước khi chết, lão Hạc đã gửi lại ba sào vưòn nguyên vẹn lại cho con trai và 30 đồng bạc để “lỡ có chết… gọi là của lão có ít chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…”.

Lão Hạc là ngưòi có lòng tự trọng cao. Lão thà ăn quả sung, củ chuối, rau má chứ không bán một tấc vườn của con, không nhận sự giúp đỡ của ông giáo hàng xóm: “Lão từ chối tất cả những gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như hách dịch”.

Lão cũng không muôn cái chết của mình làm phiền đên làng xóm nên đã gửi 30 đồng bạc cho ông giáo lo hậu sự về sau.

Lão cũng hiếu rằng, nếu lão vẫn tiếp tục sống thì sốm hay muộn cũng ăn vào số tiền của con, vì yêu con, vì lòng tự trọng, lão Hạc chọn cái chết. Cái chết của lão tuy đau đớn về thể xác nhưng để lại một tấm lòng cao đẹp và thật đáng trân trọng. Cái chết của lão Hạc là một sự hi sinh cao cả của người cha giàu tình thương con, của một người nông dân nghèo trong sạch. Trước cái chết của lão Hạc, Nam Cao còn tinh tế đưa nhân vật Bính Tư – “làm nghề ăn trộm” – kể chuyện tạo nên sự tương phản đặc sắc. Cả nhân vật ông giáo và người đọc đều ngổ ngàng khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, “Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão…”.

Nhưng đến khi ta chứng kiến cái chết dữ dội của lão “vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên”… “Lão vật vã đến 2 giờ đồng hồ mới chết”, ta mới thấy hết nét đẹp trong tâm hồn nhân vật, một nhân cách cao đẹp. Cái chết của lão Hạc đã phủ định quy luật “Đói ăn vụng, túng làm càn”. Hoàn cảnh túng quẫn do đói nghèo không làm mất đi phẩm chất trong sáng, tình ngưòi đôn hậu, lòng tự trọng của người nông dân nghèo khó này. Lão Hạc là một điển hình về ngưòi nông dân Việt Nam nhân hậu, trong sạch và tự trọng.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 48)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Bám sát vào văn bản, chú ý sự thay đổi tâm lí, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc, trước khi lão Hạc bán chó, sau khi lão bán chó, và khi nhân vật “tôi” chứng kiến cái chết của lão Hạc.

b) Gơi ý trả lời

Đọc tác phẩm, ta thấy ngoài “cậu Vàng” là người bạn thân thiết của lão Hạc, còn có nhân vật “tôi” – ông giáo, người hàng xóm mà lão Hạc rất tin cậy thường dốc bầu tâm sự. Ngưòi đọc cũng đã nhận thấy thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc có sự thay đổi. Lúc đầu, nghe lão Hạc kể về chuyện bán chó thì “lòng tôi rất dửng dưng” vì “Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi”. Nhưng sau khi lão Hạc bán chó nhân vật tôi chứng kiến tâm trạng giằng xé, đau buồn, ân hận của lão, lão dằn vặt vì đã nỡ lừa một con chó thì ông giáo xúc động, thương cảm với tình cảnh của lão Hạc: “Trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc”. Sau đó, nhân vật tôi đã an ủi, chia sẻ với nỗi buồn của lão nông hàng xóm, mời lão ở lại nhà chơi ăn khoai lang luộc, uống nước chè tươi, hút thuốc lào và giấu vợ tìm cách giúp đỡ lão Hạc…

Khi nghe Binh Tư kể lão Hạc xin bả chó, nhân vật tôi “ngạc nhiên” và sau đó buồn, hoài nghi về phẩm chất lão Hạc với suy nghĩ tiêu cực “cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…”, và nghĩ rằng lão Hạc cũng vì túng nên mới “ăn trộm chó” như Binh Tư.

Nhân vật “tôi” cũng là ngưòi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc và đã hiểu ra được phẩm chất đáng quý của lão, tự đáy lòng mình nhân vật tôi rất cảm phục Ông lão nghèo. “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão trở về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ khộng chịu bán đi một sào…”.

Nhân vật ông giáo là ngưòi duy nhất hiểu sâu sắc, đồng cảm và kính trọng lão Hạc. Vợ ông giáo, Binh Tư đều không hiểu gì về lão Hạc. Họ chỉ thấy lão Hạc là gàn gở, ngu ngốc và thờ ơ trước tình cảnh của lão. Song không chỉ ông giáo là người hiểu, kính trọng lão Hạc mà người đọc cũng phát hiện ra được vẻ đẹp đáng kính của lão.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 48)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc kĩ đoạn văn thể hiện ý nghĩ của nhân vật “tôi”. Căn cứ vào từng câu chữ để hiểu ý của đoạn văn. Chú ý đến sắc thái khác nhau giữa câu “cuộc đời đáng buồn” và “vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.

b) Gợi ý trả lời

Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bả chó để bắt một con chó hàng xóm, nhân vật tôi lúc đầu rất “ngạc nhiên” và sau đó rất buồn. Nhân vật “tôi” là người hiểu lão Hạc hơn ai hết, nên buồn vì một con người có lòng tự trọng cao, giàu tình yêu thương con, yêu thương động vật thế mà giờ đây vì túng quẫn cũng làm liều: “Con người đáng kính ấy bây giờ lại theo gót Binh Tư để có ăn ư?” “Một người đã khóc vì trót lừa một con chó… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luy đến hàng xóm, láng giềng” lại có thể làm điều xấu trong lúc túng quẫn thì quả thật là đáng buồn. Một nỗi buồn như chia sẻ cảm thông lẫn hoài nghi và trách móc.

Nhưng khi nhân vật “tôi” chứng kiến cái chết đau đớn, vật vã của lão Hạc thì vô cùng cảm kích trước người nông dân nghèo khó ấy. Cái chết của lão Hạc đê lại một nỗi buồn khôn tả trong lòng nhân vật “tôi”. “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.

Nỗi buồn của nhân vật “tôi” lúc này lại “theo một nghĩa khác”. Buồn vì một con người thánh thiện, thuần khiết, tự trọng và đáng kính như lão Hạc lại phải chết một cách đau đớn, vật vã như vậy. Cuộc đời lão Hạc thật bất hạnh. Lúc sông, lão là một ngưòi cô đơn, chỉ có con chó làm bạn, sống trong cảnh nghèo túng. Đến lúc chết, lão cũng không được ra đi một cách thanh thản.

Câu nói của nhân vật “tôi” hay nỗi buồn nhân vật cứ ám ảnh lòng người đọc.

Số phận của lão Hạc cũng là số phận chung của ngưòi nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám (1945). Làng quê Việt Nam trước Cách mạng nghèo đói, xơ xác. Người nông dân lam lũ dưới ách thông trị của xã hội phong kiến lạc hậu và thực dân Pháp xâm iược tàn bạo. Truyện ngắn “Lão Hạc” là. bức tranh thu nhỏ về nông thôn Việt Nam trước năm 1945. –

5. Câu hỏi 5 (SGK, trang 48)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Trong văn tự sự, cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật, tổ chức tình huống truyện là một trong những yếu tố quan trọng, nhằm làm sáng rõ chủ đề. Vì vậy, cần chú ý đến cách xây dựng nhân vật, diễn biến tâm lí của lão Hạc, của ông giáo để thấy được nét đặc sắc trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nam Cao. Đồng thời, tình huống truyện và cách kể chuyện cũng góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

b) Gơi ý trả lời

Truyện ngắn “Lão Hạc” đặc sắc trong cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, cách tạo tình huống và cách dẫn truyện. Nam Cao tập trung xây dựng hai nhân vật: lão Hạc và ông giáo. Diễn biến tâm lí của hai nhân vật được thể hiện trước hết qua sự kiện bán “cậu Vàng”. Chủ nhân của nó là lão Hạc, một lão nông nghèo đã băn khoăn, day dứt khi phải bán con chó. Để rồi, khi nó đã bị bắt đi, lão đau khổ, xót xa, dằn vặt, “khóc vì trót lừa một con chó”.

Còn nhân vật “tôi” đã chuyển biến từ thái độ dửng dưng, đến chỗ thấu hiểu, cảm thông, muốn chia sẻ và kính trọng lão Hạc.

Tình huổhg truyện cũng được tạo dựng một cách độc đáo. Tác giả đặt các nhân vật trong tình cảnh nghèo đói, túng quẫn để làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của họ. Lão Hạc và ông giáo đều có nỗi khô riêng, đều có chung cảnh nghèo khó. Song, ông giáo vì cô” tìm hiểu và muôn sẻ chia, nên đã nhận ra vẻ đẹp của lão Hạc trong cái vẻ bề ngoài tưởng chừng là gàn dở của lão. Còn lão Hạc trở nên thánh thiện, đáng kính biết bao trong tình cảnh túng quẫn ấy.

Tình huống thứ hai trong truyện là yiệc lão Hạc xin bả chó. Việc làm đó lúc đầu khiến nhân vật “tôi” không tránh khỏi ngạc nhiên và hiểu nhầm. Nhân vật Binh Tư xuất hiện đã tôn thêm phẩm chất cao quý của lão Hạc. Binh Tư vì nghèo đói phải lấy việc trộm cắp làm nghề kiếm cơm, còn lão Hạc quá túng quẫn đã chọn cái chêt chứ nhất định không “làm liều”. Vì thế, cái chết của lão Hạc đã trở thành bất tử.

Bên cạnh việc xây dựng tâm lí nhân vật, tổ chức tình huống truyện thi cách dẫn truyện trong “Lão Hạc” cũng là một nghệ thuật tinh tế. Truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” – ông giáo, người trực tiếp tham gia, chứng kiến mọi diễn biến, sự kiện liên quan đên nhân vật chính – lão Hạc. “Tôi” có lúc là lòi của ông giáo, cũng là sự hoá thân của chính tác giả Nam Cao vào truyện một cách tinhì tê. Do đó, cốt truyện được dẫn dắt tự nhiên mà có sự đan xen giọng điệu, không làm cho truyện đơn điệu.

“Lão Hạc” là một truyện ngắn hay và đặc sắc của Nam Cao viêt về ngưòi nông dân và nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác phẩm thể hiện chân thực, cảm động về số phận đau thương của ngưòi nông dân trong xã hội cũ và ca ngợi vẻ đẹp cao quý của họ. Đồng thòi, truyện ngắn còn cho thấy tấm lòng yêu thương trân trọng ngưòi nông dân và nghệ thuật viết truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao.

 

Tài liệu tham khảo

1. (…) Truyện của Nguyễn Công Hoan lại thiên về phía kịch làm cho mỗi câu chuyện hiện lên trong tác phẩm giông như một trò đùa. Nam Cao đưa truyện ngắn vào mạch phân tích, giải thích mối quan hệ nhân quả giữa môi trưòng và tính cách, giữa hoàn cảnh với con ngưòi. Lời trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao mang âm vang của nhiều giọng nói. Những cách tân nghệ thuật ấy cho phép Nam Cao đặt ra trong truyện ngắn Lão Hạc hàng loạt vấn đề xã hội quan trọng vượt ra bên ngoài ý nghĩa của đề tài và chất liệu. Từ chiều sâu của nội dung tư tương, truyện ngắn “Lão Hạc” cất lên tiếng kêu khẩn thiết phải thay đổi toàn bộ môi trường đòi sông phi nhân tính để cứu lấy những giá trị chân chính của con người. Nam Cao nhắn nhủ vối bạn đọc muôn đời, rằng: “đối với những người ở quanh ta” ta phải “cố mà hiểu họ” để ngưòi và ngươi có thể xích lại gần nhau. Và kết thúc thiên truyện, Nam Cao đã thốt lên, thể hiện niềm tin sâu sắc, đầy lạc quan vào sự trường tồn của bản chất tốt đẹp ở con ngưòi: “Không! Cuộc đòi chưa hẳn đã đáng buồn”…

(La Khắc Hoà, theo cuốn Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 8)

Xem thêm: Giúp em học tốt Ngữ Văn 8 – Xây dựng đoạn văn trong bản.

2. Nhân vật “cậu Vàng” trong truyện ngắn “Lão Hạc” được nhà văn khái quát một cách sâu lắng và cảm động. Dùng con vật như một đôi sách đê khắc hoạ chân dung con người không còn là một thủ ‘pháp nghệ thuật xa lạ nữa. Trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, “con chó” đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy mà ám ảnh hơn cả vẫn là “cậu Vàng” của ông lão này thôi.

Ớ đây, con chó nào đâu chỉ sắm một vai truyện. “Cậu Vàng” còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể hình dung đầy đủ về lão Hạc, nếu thiếu đi con chó ấy? Rõ ràng, Nam Cao có dụng ý đối chiếu ý thức sở hữu của anh trí thức và người nông dân. Ông giáo vô cùng quý những cuốn sách của mình. Nhưng, với ông giáo, sách chỉ là một kỉ niệm về thòi gian đầy mơ ước và cũng chỉ thế

thôi! “Cậu Vàng” vối lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản “lão lẩm nhẩm quy ra tiền”, một vật nuôi “định bụng lúc cưối thằng con sẽ thịt”, nó còn là kỉ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão và đứa con trai vắng mặt. Song, phát hiện sâu săc, kì lạ của ngòi bút Nam Cao ở đây, vẫn là tư cách thứ tư của nó: một thành viên trong gia đình lão Hạc. Có một đứa con trai độc nhất thì đã bỏ lão đi làm ăn xa. Sông cô quạnh trong tuổi già trông trơ, lạnh lẽo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông nội. Có bao nhiêu tình cảm chứa chất trong lòng, lão dồn hêt vào con chó. Lão coi nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng, côi cút: bắt rận, tắm, trò chuyện âu yếm với nó. Lão gọi là “cậu Vàng như một bà hiếm hoi, gọi đứa con cầu tự”. Lão mắng yêu, lão cưng nựng nó. Cứ thế, ranh giới, sự phân đẳng ngưòi – vật (chủ sở hữu và vật bị chiếm hữu) đã bị xoá nhoà từ bao giò. Dường như vật nuôi đã được người hoá.

Cũng vì thế khi cuộc sông tàn ác buộc lão phải chà đạp, phải thủ tiêu quan hệ tình cảm này, lão đã rơi vào bi kịch. Lúc đường cùng, buộc phải trả con chó về địa vị thông thường của một con vật nuôi, một tài sản, nghĩa là xoá bỏ tư cách một kỉ vật, một thành viên, một ngưòi bạn tận tuỵ, trung thành đốì với lão là một tội hình không thể tha thứ.

“Cậu Vàng” không chỉ làm hiện lên nguyên vẹn tính ngưòi tự nhiên sâu thẳm trong lão Hạc. Đằng sau đó, Nam Cao còn kín đáo kí thác một triết lí đau buồn về thân phận trớ trêu của con người trên mặt đất này.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận