Phân tích tác phẩm Xin Lập Khoa Luận – Ngữ văn lớp 11

Đang tải...

Đọc thêm

XIN LẬP KHOA LUẬT

(Trích Tế cấp bát điều)

I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ

1.Về tác giả

Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) xuất thân từ một gia đình theo đạo Thiên Chúa, người làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông theo học chữ Hán từ nhỏ, rất uyên thâm về Nho học nhưng không theo con đường khoa cử mà mở trường dạy học. Ông có cơ hội sớm học tiếng Pháp và tiếp xúc với văn minh Tây Âu, có vốn hiểu biết về khoa học – kĩ thuật rộng lớn và chuẩn xác, về chính trị – xã hội thế giới cũng như phương Đông khá sâu sắc và tinh tường. Nguyễn, Trường Tộ nhận ra nhu cầu phải canh tân đất nước. Trước thực trạng nước ta mất dần vào tay quân xâm lược Pháp, ông rất đau lòng, muốn đem tất cả sức lực và trí tuệ của mình cống hiến cho dân, cho nước. Ông lần lượt dâng nhiều bản điều trần lên vua Tự Đức và triều đình nhà Nguyễn đề nghị cải tổ đất nước về kinh tế, văn hoá và xã hội nhưng triều đình vẫn làm ngơ trước 58 bản điều trần giàu tâm huyết của ông. Thậm chí, có lúc ông còn bị nghi ngờ.

2.Tri thức văn hoá

a.Dưới thời phong kiến, điều trần là loại văn bản do bề tôi viết để dâng lên vua nhằm thuyết phục bề trên về một vấn đề chính trị, xã hội nào đó. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, Thất trảm sớ của nhà giáo Chu Văn An, các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đều là những văn bản thuộc loại này.

Điều trần là một thể văn chính luận nhằm thuyết phục người đọc, người nghe làm theo đề nghị của người viết, người nói. Bởi vậy, lập luận trong bản điều trần phải chặt chẽ, chứng cứ phải xác thực, ngôn từ vừa mềm dẻo vừa thẳng thắn để nhằm tranh thủ sự đồng tình của các đối tượng mà người viết cần thuyết phục.

b.Xin lập khoa luật thuộc bản điều trần số 27 do Nguyễn Trường Tộ viết ngày 20 – 10 – 1867 mang tên Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp). Đó là tám việc sau:

1.Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị;

2.Xin họp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khoá sinh;

3.Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ;

4.Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng;

5.Xin điều chỉnh thuế ruộng đất;

6.Xin sửa sang lại biên giới;

7Xin nắm rõ nhân số (số ngưòi – NBS);

8.Xin lập viện Dục anh (viện nuôi dưỡng trẻ mồ côi – NBS) và trại Tế bần (trại cứu giúp những người nghèo khổ – NBS).

Trong việc (4) – Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng – Nguyễn Trường Tộ đề nghị thành lập các khoa sau đây để dạy cho người Việt Nam : khoa nông chính, khoa thiên văn và khoa địa lí, khoa kĩ nghệ, khoa luật học.

II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

1.Nguyễn Trường Tộ đặt vấn đề phải lập khoa luật

Cách vào đề của Nguyễn Trường Tộ là trực tiếp, trực diện cốt để nêu bật tầm quan trọng của luật trong cuộc sống, vai trò của luật đối với bất kì ai – dù là người đó làm quan hay là thường dân : “Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ sung thêm từ thời Gia Long đến nay”. Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia : đất nước muốn tồn tại phải có kỉ cương, nhà nước muốn cai trị dân phải có uy quyền, thông qua các chính sách và pháp luật (chính lệnh). Điều đó chứng tỏ luật bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của con người.

Do bản điều trần này viết đệ trình lên vua Tự Đức, thuyết phục nhà vua cho mở khoa luật nên ông đã khéo léo làm một việc so sánh, đối chiếu giữa việc hành pháp ở các nước phương Tây văn minh vói việc thực thi đạo tam cương ngũ thường,việc hành chính của sáu bộ ở nước ta thời đó. Theo Nguyễn Trường Tộ, tam cương ngũ thường là xương sống của chế độ phong kiến, là đạo lớn nhất bao trùm mọi quan hệ xã hội và gia đình, mọi cách ứng xử giữa con người với nhau ; lục bộ (sáu bộ) là cơ quan quyền lực trung ương của nhà nước phong kiến. Vì trong luật có đủ cả đạo tam cương ngũ thường, cả việc hành chính của sáu bộ cho nên nhà vua không có lí do gì mà lại không cho thành lập khoa luật để dạy luật cho ngưòi Việt Nam.

Vả lại, việc hành pháp lại tránh cho các quan thi hành luật pháp “không bị một bó buộc nào cả” ; giúp cho nhà vua “không dự vào những việc ngũ hình để tỏ đạo nhân ái”.

Việc đặt vấn đề trực tiếp, rõ ràng như thế làm người đọc (vua Tự Đức) hiểu ngay mục đích vấn đề mà người viết nêu ra trong bản điều trần, bước đầu đã được thuyết phục bởi lí lẽ cũng như thực tế mà người viết viện dẫn.

2.Nguyễn Trường Tộ phê phán Nho học truyền thống không có tác dụng bằng luật pháp

Việc phê phán Nho học, nho gia được triển khai ở mấy điểm như sau :

-Thứ nhất, Nguyễn Trường Tộ thừa nhận “đạo làm người không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa”. Nhưng điều đáng nói ở đây là, ông khẳng định như vậy để mà phủ định nó : đạo ấy muốn trở thành hiện thực phải có luật, không thì chỉ là nói suông, “không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng” ; các nhà nho học nhiều nhưng “mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?”.

Để thuyết phục nhà vua, Nguyễn Trường Tộ dẫn lời của chính Khổng Tử – ông tổ của Nho học – để chứng minh cho sự phê phán của mình là đúng : “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Đúng là Nho học truyền thống không có tác dụng như luật. Vì vậy, xã hội đã đến lúc cần phải có luật pháp để “cứu nước giúp đời”.

-Thứ hai, Nguyễn Trường Tộ cho rằng vua chúa thống trị được là nhờ hiểu luật chứ đâu chỉ vì xem các sách vở của nho gia xưa để lại. Theo ông, họ không “phụ thuộc” vào sách vở ; các vua chúa chỉ tham khảo thôi chứ dùng để trị dân sao được. Bởi vi, sách vở chỉ là các “sự tích chính sự thời xưa của cổ nhân”, “những bài luận hay ho của người xưa”, “những áng văn chương trau chuốt của chư tử”, “những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự”,… Tóm lại, sách vở nho gia “chỉ làm rối trí thêm chẳng được tích sự gì” !

Một lần nữa, ông lại dẫn lời Khổng Tử để làm sáng tỏ quan điểm của mình vừa nêu : “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Mà muốn làm việc phải có luật, về vấn đề này, ông nêu lên tình trạng đáng buồn của phần đông các “con dân” nơi cửa Khổng sân Trình thời đó : suốt đời học chữ thánh hiền nhưng cư xử “còn tệ hơn những người quê mùa chất phác”.

Cách lập luận của Nguyễn Trường Tộ tỏ ra rất sắc sảo, chặt chẽ ; luận điểm rõ ràng, luận chứng và luận cứ có sức thuyết phục, có tính chiến đấu cao, bộc lộ tâm huyết của một nhà trí thức thiết tha với cồng cuộc đổi mới đất nước ở nửa sau thế kỉ XIX.

3.Nguyễn Trường Tộ khẳng định sự thống nhất giữa đạo đức và luật pháp

Để chốt lại vấn đề đặt ra, sau khi lập luận rằng luật pháp có vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sự, tổ chức xã hội, rằng Nho học đã tỏ ra không có tác dụng bằng luật, Nguyễn Trường Tộ nâng thành vấn đề quan hệ giữa đạo đức và pháp luật để giả định phản bác quan niệm “luật chỉ tốt cho cai trị chứ không có đạo đức”. Theo ông, luật đâu chỉ là chính trị, đâu “chỉ tốt cho việc cai trị”, mà luật còn là “đức”, là cái đức “chí công vô tư”, là “đức trời”, là “đạo làm người”. Ông phản bác để mà khẳng định : “Nếu tận dụng cái lẽ công bằrìg ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức” ; “Trong luật cái gì cũng công bằng họp vói đức trời”.

Nếu có đọc bản điều trần này thì đến đây, chắc Tự Đức sẽ an lòng, không lo việc lập khoa luật sẽ trái với “đức trời”, vói “đạo làm người” mà hàng nghìn năm bao đòi vua đã cố công duy trì để thống trị xã hội phong kiến Việt Nam.

Tiếc rằng vua Tự Đức, triều đình nhà Nguyễn bấy giờ không chấp nhận. Bản điều trần số 27 cũng như các bản điều trần khác của Nguyễn Trường Tộ đều bị xếp lại.

Xin lập khoa luật là một trong rất nhiều đề nghị của Nguyễn Trường Tộ để canh tân đất nước – để đưa xã hội Việt Nam vào luật pháp, đưa con người sống trong luật pháp nhằm góp phần làm cho Việt Nam thoát khỏi lạc hậu và hiểm hoạ mất nước. Bản điều trần số 27 biểu hiện tấm lòng yêu nước của một trí thức theo đạo Thiên Chúa đi trước thời đại, tiếp cận tư tưởng nhà nước pháp quyền, khát khao muốn đưa đất nước đi lên theo hướng hiện đại, tiên tiến như các nước phương Tây khi đó. Tư tưởng pháp trị mà Nguyễn Trường Tộ trình bày trong bản điều trần vừa có ý nghĩa tiến bộ về luật pháp, vừa có ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ quyền lọi cho người dân thời đó. Cho đến nay, điều này vẫn còn nguyên giá trị.  

XEM THÊM PHÂN TÍCH TÁC PHẨM CHIẾU CẦU HIỀN -NGỮ VĂN 11 TẠI ĐÂY

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận