Đề Tham Khảo Ôn Tập Học Sinh Giỏi Ngữ Văn 7 – Đề Số 1

Đang tải...

Bộ đề tham khảo ôn tập học sinh giỏi Ngữ Văn 7 có kèm hướng dẫn chấm (hướng dẫn làm bài) nhằm giúp các bạn học sinh ôn tập và củng cố kiến thức Ngữ Văn hiệu quả nhất. Chúc các bạn thi học sinh giỏi Ngữ Văn 7 tốt nhất.

BỘ ĐỀ THAM KHẢO ÔN TẬP HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 7

Đề học sinh giỏi Ngữ Văn 7 số 1

Câu 1 (4 điểm)

Trong một bài hát về trẻ em, nhạc sĩ Lê Mây có viết:

“Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai
Đó là vần thơ
Cũng là câu hát

Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai
Xin được nhắc ngàn lần hơn thế
Trái đất chưa im tiếng bom rơi
Xin điệp khúc triệu lần hơn thế
Bao trẻ em còn đói rách trên đời


Bạn có nghe trẻ em khóc trẻ em cười
Bạn có nghe trẻ em khóc trẻ em cười

Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai.”

(Lời bài hát: Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai, nhạc: Lê Mây, thơ: Phùng Ngọc Hùng)

Hãy viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của em về thông điệp được gợi ra từ bài hát trên.

Câu 2 (6 điểm)     

Có ý kiến cho rằng: “ Ca dao không chỉ cất lên tiếng nói yêu thương, đồng cảm, trân trọng con người mà ca dao còn cất lên tiếng nói đấu tranh xã hội để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn” 
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên bằng một số bài ca dao mà em đã được học, được đọc? 

HƯỚNG DẪN CHẤM

1. YÊU CẦU CHUNG

– Giám khảo phải nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt Hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức độ điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo.

– Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho đủ điểm.

– Điểm bài thi có thể cho lẻ đến 0,25 điểm và không làm tròn.

2. YÊU CẦU CỤ THỂ

Câu 1 (4,0 điểm)

a) Về kĩ năng

Biết cách viết bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục, văn viết mạch lạc, trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.

b) Về kiến thức

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

Nội dung

a. Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề

– Nêu được vấn đề nghị luận: Thông điệp Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai.

b. Thân bài:

* Giải thích vấn đề:

– Trẻ em: chỉ các bạn nhỏ chưa đến mười sáu tuổi, chưa đến tuổi trưởng thành, độ tuổi đi học mầm non, tiểu học trung học cơ sở, còn ngây thơ, non nớt và còn phụ thuộc…

– Nội dung thông điệp: Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai hàm ý đặt niềm tin ở trẻ em; khẳng định vai trò của trẻ em là thế hệ kế tục sự nghiệp của người đi trước, là những chủ nhân tương lai, có sứ mệnh quyết định đến tương lai của dân tộc hay của nhân loại.

=> Do vậy cần lắng nghe, thấu hiểu, chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em để tất cả trẻ em đều có một tuổi thơ tươi vui, hạnh phúc, một tương lai tốt đẹp ….

* Khẳng định vấn đề: Đó là một thông điệp hoàn toàn đúng đắn và ý nghĩa.

* Lý giải vấn đề:

Sở dĩ cần nhận thức đúng đắn vai trò của trẻ em đối với tương lai, quan tâm, chăm sóc trẻ em từ hôm nay là vì:

– Trẻ em là lứa tuổi còn nhỏ, đang trong giai đoạn phát triển về mọi mặt, còn phụ thuộc vào người lớn cả về vật chất, tinh thần. Việc trẻ em lớn lên như thế nào? Hoàn thiện bản thân mình ra sao?… phần lớn là do sự giáo dục của gia đình, của nhà trường, của xã hội, của những người đi trước.

– Có chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em từ hôm nay thì ngày mai mới có những con người trưởng thành để gánh vác nhiệm vụ của thế hệ trước, xây dựng đất nước, quê hương.

– Vì trẻ em là một phần của gia đình, của xã hội nên trẻ em được sống đầy đủ, vui tươi, hạnh phúc là nguồn vui, nguồn hạnh của gia đình, là thước đo sự tiến bộ của xã hội, là cách đánh giá tầm nhìn, và trách nhiệm của thế hệ đi trước.

– Ngược lại, ngay từ hôm nay nếu trẻ em không được gia đình và xã hội quan tâm, yêu thương và giáo dục tốt thì ngày mai sẽ khó tiếp bước thế hệ đi trước. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc của mỗi gia đình, đến tương lai và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.

* Lấy dẫn chứng về việc xã hội nhìn nhận vai trò và quan tâm chăm sóc trẻ em: Những lời dạy của Bác Hồ, sự quan tâm, yêu thương các cháu thiếu niên nhi đồng của Bác. Các chương trình chăm sóc trẻ em của Nhà nước, của các tổ chức xã hội. Xã hội ghi nhận vai trò của trẻ em và quan tâm đến trẻ em thông qua ngày Quốc tế thiếu nhi 1.6…

* Bàn bạc mở rộng:

– Trên thực tế vẫn còn nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không được đến trường, sống trong sự ngược đãi, bị lợi dụng… Thế giới còn chiến tranh, xung đột, thiên tai, dịch bệnh… ảnh hưởng đến sự an toàn và phát triển toàn diện của trẻ…

– Vẫn tồn tại những sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc trẻ em không đúng cách: quá nuông chiều hoặc quá khắt khe, còn áp đặt…

* Bài học nhận thức và hành động:

+ Mỗi gia đình và toàn xã hội cần nâng cao nhận thức cũng như trách nhiệm mình về vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

+ Mỗi  trẻ em cần nhận thức được vai trò của mình đối với tương lai của đất nước, quê hương, đối với sự mong đợi của gia đình cần không  ngừng tu dưỡng, rèn luyện để hoàn thiện bản thân.

c. Kết bài:

– Nhấn mạnh tầm quan trọng và giá trị tác động cua thông điệp tới mọi người.

Câu 2 (6,0 điểm)

* Mở bài:

– Giới thiệu chung về giá trị của ca dao 
– Dẫn nhận định “Ca dao không chỉ… một cuộc sống tốt đẹp hơn” 
– Giới hạn phạm vi dẫn chứng: một số bài ca dao mà em đã được học, được đọc?

* Thân bài: 

+ Giải thích nhận định:

– Ca dao không chỉ cất lên tiếng nói yêu thương, đồng cảm, trân trọng con người: thể hiện lòng nhân ái, thương người như thể thương thân; xót thương cho những kiếp người khổ đau, bất hạnh; ca ngợi những giá trị chân chính, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân.

– Ca dao còn cất lên tiếng nói đấu tranh xã hội để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn: đấu tranh phê phán các thói xấu: lười biếng, khoác lác, mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu; đấu tranh giai cấp…

+ Chứng minh nhận định:

– Tiếng nói yêu thương, đồng cảm, trân trọng con người trong ca dao:

Yêu thương con người: 
“ Bầu ơi thương lấy bí cùng 
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” 
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương 
Người trong một nước thì thương nhau cùng”

– Ca ngợi trân trọng giá trị của con người:

Từ vẻ đẹp hình thức bên ngoài: 
“ Cổ tay em trắng như ngà 
Đôi mắt em sắc như là dao cau 
Miệng cười chúm chím hoa ngâu 
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”

Đến nhân cách phẩm giá bên trong: 
“ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn 
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”

– Đồng cảm, xót xa trước nỗi vất vả, khổ đau bất hạnh của người dân lao động:

“ Cày đồng đang buổi ban trưa 
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày 
Ai ơi bưng bát cơm đầy 
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

->Mỗi miếng bát cơm dẻo thơm được đổi bằng bao giọt mồ hôi và nước mắt. Với cách nói so sánh “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” và đối lập “Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, tác giả dân gian đã nhấn mạnh nỗi vất vả cực nhọc của người nông dân đồng thời nhắc nhơ mọi người phải biết trân trọng thành quả lao động của họ.

Trong xã hội ấy, còn bao kiếp người bất hạnh, bao số phận éo le ngang trái, có làm mà chẳng có ăn, tha phương cầu thực, kêu than thảm thiết mà không ai thấu hiểu. Bằng cách nói ẩn dụ qua hình ảnh của những con vật nhỏ bé tội nghiệp (tằm, kiến, hạc, cuốc…), ca dao đã thể hiện rất xúc động nội dung trên:

“ Thương thay thân phận con tằm 
Kiếm ăn được mấy mà nằm nhả tơ 
Thương thay lũ kiến li ti 
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi 
Thương thay hạc lánh đường mây 
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi 
Thương thay con cuốc giữa trời 
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”

Nhất là người phụ nữ sống trong xã hội trọng nam khinh nữ, họ không có quyền bình đẳng, họ bị coi rẻ, bị tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc: 

“ Thân em như giếng giữa đàng 
Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân” 
“ Thân em như chổi đầu hè 
Để ai hôm sớm đi về chùi chân”

– Tiếng nói đấu tranh trong ca dao: 

+ Phê phán các thói hư tật xấu trong xã hội: 
Phê phán thói lười biếng: 
“Ăn no rồi lại nằm khoèo 
Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem”

+ Phê phán thói khoe khoang, khoác lác: 
“ Cậu Cai nón dấu lông gà 
Ngón tay đeo nhẫn gọi là Cậu Cai 
Ba năm được một chuyến sai 
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê”

Phê phán thói mê tín dị đoan: 
“ Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ 
Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi”

+ Phê phán những hủ tục lạc hậu: 
“Con vua thì lại làm vua 
Con sãi ơ chùa thì quét lá đa 
Bao giờ dân nổi can qua 
Con vua thất thế lại ra quét chùa”

* Kết bài: 
– Khẳng định lại tính đúng đắn của nhận định 
– Ca dao thực sự là những viên ngọc quý, như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam. 

>> Xem thêm: Dàn Ý Bài Nghị Luận Về Một Tác Phẩm Văn Học Chi Tiết 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận