TẬP LÀM THƠ BỐN CHỮ
I. – CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KIẾN THỨC
1. Thơ bốn chữ tức là thể thơ mỗi câu chỉ gồm 4 chữ (tiếng). Đây là thể thơ có số chữ trong một câu ít nhất (thơ hai chữ, ba chữ rất ít gặp), gieo vần linh hoạt, về hình thức, thơ bốn chữ được coi là loại thơ “dễ làm”, có thể thích hợp với người tập làm thơ. Tất nhiên, để có thơ hay thì bất cứ thể thơ nào cũng khó.
2. Thể thơ bốn chữ thời xưa thường thấy trong đồng dao (bài ca của thiếu nhi) và-vè dân gian. Ví dụ, bài
Ăn một bát cơm
Nhớ người cày ruộng Ăn mớ rau muống Nhớ người đào ao Ăn một quả đào Nhớ người vun gốc Ăn một con ốc Nhớ người đi mò |
Phải nói là đồng dao và vè thời xưa chủ yếu làm bằng thể bốn chữ. Thơ bốn chữ, ngắn thì chỉ cần bốn câu mà dài thì kéo dài bao nhiêu cũng được. Còn trong thơ hiện đại, nhất là thơ của thiếu nhi và thơ cho thiếu nhi, làm theo thể bốn chữ cũng khá phổ biến. Ví dụ:
Bòng chưa kịp chín
Bưởi thì vàng mơ Ổi nằm bên na Cam còn xanh vỏ Quýt chưa kịp đỏ Táo thơm mới về Thu đã bộn bề Quả về khắp ngả |
Đồng dao và vè được gọi là thơ ca dân gian; tuy nhiên, một số bài có lẽ chỉ nên coi là “văn vần”, vì kết cấu tự do, thiếu chặt chẽ của nó, không rõ chủ đề, chủ yếu dùng để hát cho vui. Ví dụ, bài ông tiển ông tiên dưới đây:
Ông tiển ông tiên ông nhai tóp tép
Ông có đồng tiền Ông mua con tép Ồng giắt mái tai Ông về ăn cơm Ông cài lưng khố Ông mua mớ rom Ông ra hàng phố Để về ông thổi Ông mua miếng trầu Ông mua cái chổi… |
3. Thơ bốn chữ thường gieo vần liền, tức là các tiếng bắt vần với nhau thuộc hai câu đứng cạnh nhau. Trong bài Ăn một bát cơm, các tiếng ruộng – muống, ao – đào bắt vần với nhau; bài ông tiển ông tiên, các tiếng tiên – tiền, khố- phố bắt vần vói nhau.
Cũng có khi gieo vần cách: tiếng bắt vần với nhau thuộc hai câu đứng cách nhau một câu. Ví dụ:
Hạt gạo làng ta Những năm băng đạn
Những năm bom Mĩ Vàng như lúa đồng Trút trên mái nhà Bát cơm mùa gặt Những năm cây súng Thơm hào giao thông… Theo người đi xa |
(Trần Đăng Khoa)
Xét về luật bằng trắc thì có hai cách gieo vần trong thơ bốn chữ:
– Gieo vần bằng: các tiếng bắt vần với nhau là vần bằng. Ví dụ:
Ông tiển ông tiên
Ông có đồng tiền
– Gieo vần trắc: các tiếng bắt vần vói nhau là vần trắc. Ví dụ:
Ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố
Thông thường trong một bài thơ bốn chữ có sự luân phiên vần bằng và vần trắc (xem các ví dụ trên).
II. – LUYỆN TẬP
Bài tập
1. Tập làm thơ bốn chữ (chủ đề tự chọn, không hạn chế số câu một bài, không hạn chế số bài).
2. Trình bày tác phẩm của mình trước lóp, trước nhóm. Góp ý với bạn về nội dung, về hình thức: Đã đúng thể bốn chữ chưa? Đảm bảo vần, nhịp chưa?…
Gợi ý chung
Một bài thơ đạt yêu cầu tối thiểu, trước hết phải đúng thể thức về số chữ, về vần, nhịp. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết chặt chẽ quá. Có thể trong một khổ chỉ có hai câu bắt vần và vần của tiếng bắt vần chỉ gần giống nhau. Ví dụ:
Mặt trời hé nhìn
Mưa roi sáng quắc Chân mưa thoăn thoắt Chạy vụt qua làng. |
(Võ Quảng)
Khi hai câu thơ không bắt vần (mà lẽ ra phải bắt vần) thì vẫn phải giữ được nhịp. Nghĩa là vẫn đạt sự luân phiên bằng trắc, tạo nên sự cân đối, “lọt tai”. Chẳng hạn, đổi thanh tiếng cuối của hai câu cạnh nhau:
Bố vào lò gạch
Mẹ ra đồng cày Anh đi công tác Chị săn máy hay. |
(Trần Đăng Khoa)
Thơ bốn chữ có khả năng trữ tình (trực tiếp bộc lộ tình cảm) mà cũng có khả năng tự sự (kể thành câu chuyện). Ví dụ bài Đánh tam cúc của Trần Đăng Khoa sau đây:
Bố vào lò gạch Mẹ ra đồng cày Anh đi công tác Chị săn máy bay Cả nhà vắng hết Nắng hồng chín rực Đây là tướng ông Đây là con ngựa – Quân này mày được – Quân này mày chui – À thôi… mày được! Nắng dừng trước cửa |
Xem thêm: Tập làm thơ năm chữ – Bồi dưỡng HSG Ngữ Văn 6 tại đây.
Comments mới nhất