Văn miêu tả lớp 3: Tả về một loài chim mà em biết

Đang tải...

Đề bài: Em hãy tả về một loài chim mà em biết hoặc em được thấy qua sách báo hoặc TV 

Bài làm 1 Chim chích choè

Vườn nhà bà nội em trồng nhiều cây ăn quả: chuối, khế, đu đủ, na, cam, chanh, bòng, ổi… Đây cũng là nơi gia đình chích choè gồm 6 con chiếm giữ, coi như giang sơn của mình.

Chích choè sống theo đôi. Chúng có cái mỏ nhọn và dài. Lông đen pha xanh biếc bao trùm lưng và đuôi. Đầu và ngực màu ghi. Bụng và đuôi (phía dưới) trắng mịn. Ớ cặp cánh điếm sọc trắng, ta tưởng là chim khoác thêm áo gi-lê. Chân chúng màu hung cao, có bốn móng nhọn, rất sắc.

Chích choè là loài chim đẹp, đầu có mào đỏ, đít cũng màu đỏ. Tiếng hát của chúng inh ỏi như tiếng chuông đồng.

Chim chích choè lớn gấp đôi chim sẻ, từ đầu mỏ đến mút đuôi chỉ dài độ 60 – 70 xăng-ti-mét. Chim bắt sâu giỏi. Khế chín, chuối chín, ổi chín là thứ hoa trái mà chim rất thích ăn. Mỗi lần nghe nó kêu, nó hót inh ỏi, bà lại bảo các cháu là trong vườn có nhiều trái chín.

Yợ chồng con cháu đàn chim chích choè thật dễ thương. Lúc nào em cũng thấy chúng tha than đi dọc các luống rau xanh bắt sâu giúp bà. Bà luôn dặn các cháu không được phá tổ chim chích choè trên ngọn cây khế ở cạnh bờ ao, để vườn ta có nhiều “chiến sĩ bảo vệ cây trồng”, để có nhiều rau xanh và trái chín.

Bài làm 2 Chim chìa vôi

Bãi sông, bãi cát, bờ suối, ven đồi… là nơi sinh sống của chim chìa vôi. Mỗi đàn chim chìa vôi thường có từ 20 – 30 con, làm tổ và trú đêm ở các ruộng mía, lùm cây.

Chim chìa vôi có thể chia đàn từ 2 – 4 con về sống ở ven làng, ở các vườn cây, vườn rau. Mỏ chim thon nhỏ, nhọn và dài. Lông ngực trắng mịn màng. Hai má có vệt lông vàng mơ. Cặp mắt hình trứng, màu đen. Lông đầu, cánh và đuôi màu đen, màu xanh có điểm sọc trắng. Cái đuôi dài độ 15 xăng-ti-mét, trên đen dưới trắng, tựa cái “chìa vôi”. Chân chìa vôi màu cam, cao, móng dài và nhọn, nhất là móng sau.

Chìa vôi là chim lành, rất có ích, bắt sâu bọ, bảo vệ vườn rau, vườn cây. Vợ chồng chìa vôi cứ tha thẩn, thỉnh thoảng lại kêu “chẽo choẹt” gọi nhau, chia mồi cho nhau.

Cây xoan, cây chanh, ngọn bạch đàn trong vườn nhà em là nơi trú ngụ của cặp vợ chồng chìa vôi. Sáng nào chim chìa vôi cũng cùng với đàn chim sẻ đua nhau gọi ông mặt trời. Lúc chim chìa vôi cong đuôi, xoè cánh kêu “chẽo choẹt” là em khoác ba lô sách đi học. Ngắm nhìn

đôi chìa vôi nhỏ bé, em thấy sao mà chúng thân thiết, dễ thương thế.

Bài làm 3 Chim chiền chiện

Nhà thơ Huy Cận có bài thơ hay viết về con chim chiền chiện. Chúng em đã được học thuộc lòng. Em vẫn thường đọc nghêu ngao:

Con chim chiền chiên Bay vút, vút cao Lòng đầy yêu mến Khúc hát ngọt ngào…

Trên cánh đồng màu của làng em có rất nhiều chim chiền chiện. vồng khoai, luống lạc, bãi ngô… là giang sơn của chim chiền chiện. Chúng cần mẫn, mải mê kiếm ăn. Vào khoảng 9-10 giờ sáng, hoặc 3-4 giờ chiều mùa hè, mùa thu, từng đôi, từng đàn chim chiền chiện tung cánh hót ríu ran khắp đồng màu. Không thấy chim mà chỉ nghe tiếng hót từ trời xanh vọng xuống. Chú Tới nói: “Cày ruộng, mồ hôi ướt đẫm, ngồi nghỉ đầu bờ, chiêu bát nước vối… lúc ấy nghe tiếng chim chiền chiện hót, thấy sướng cái lỗ tai. Mua vé năm chục nghìn đồng vào rạp xem, nghe ca sĩ vừa nhảy vừa hát, có khoái bằng nghe chim chiền chiện hót không nào?”.

Chú vừa nói vừa lim dim cặp mắt, rồi cười thật vui, thật hóm hỉnh.

Chiền chiện đồng hung và chiền chiện đồng vàng là hai loại có nhiều ở đồng màu quê em. Chim bé nhỏ xinh xinh, chỉ dài độ 10 – 15 xăng-ti-mét. Bộ lông có sọc vằn điểm trắng. Lông ở bụng màu trắng hoặc vàng mơ. Cặp cánh bó sát vào thân mình làm cho dáng chim thon thả. Cặp chân chiền chiện khá dài, móng chân nhọn, màu vàng ngà, rất xinh. Mỏ chim khum khum như ngòi bút máy, màu đen, lúc nào cũng mấp máy.

Thức ăn của chiền chiện là các loài sâu mà chúng tìm được ở các vồng khoai, luống ngô, lạc… Chú Tới nói: “Năm nào chim chiền chiện hót vang đồng, vang trời là năm đó được mùa. Không có con chim nào đáng yêu như chim chiền chiện”.

Bài làm 4 Chỉm yeng

Bác Hoàng Kiều, nhà giáo về hưu, có nuôi nhiều chim đẹp và hót rất hay. Đáng yêu nhất là con chim yểng.

Bác cho biết con yểng này là quà tặng của một sĩ quan Công an biên phòng Lai Châu – học trò cũ 20 năm về trước tặng bác nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2009. Bây giờ con

yểng đã biết nói. Nó tự học và tự nói, giọng khàn khàn, nghe rất ngộ nghĩnh: “Có khách! Cố khách!”, “Chào khách! Chào lthách!”. Sáng nào cũng vậy, nó nói: “Sáng rồi! Sáng rồi!” để đánh thức mọi người dậy tập thể dục, chuẩn bị đi làm.

Con yểng dài độ 30 xăng-ti-mét, khoác bộ lông xanh đen óng ánh. Cặp mỏ nhọn, dài màu vàng tươi. Mắt có viền tròn. Con yểng có hai vệt vàng như hai cánh hoa mai uốn cong lên. Cặp chân màu vàng sẫm, rất xinh.

Lúc nào em cũng cảm thấy con yểng dịu dàng, ngẩn ngơ như ngẫm nghĩ, như đang thương nhớ gì xa xôi. Thoáng thấy em đi học về, nó đã vồn vã: “Chào khách! Chào khách”.

Con yểng thích ăn trái cây chín. Nó cũng biết ăn khoai và thưởng thức một hai miếng thịt mỡ. Bác Hoàng Kiều quý nó lắm.

Bài làm 5 Chim bìm bịp

Phía đông làng em là hồ Ngựa rộng và dài, có tre và cây mắm, lau lách um tùm. Hồ là nơi đàn le le bơi lội, đàn cò tha thẩn kiếm mồi. Dọc bờ cây mắm, lau lách là nơi trú ngụ, sinh sống của chim bìm bịp.

Chim bìm bịp thường theo đôi. Chim to hơn bồ câu; từ mỏ đến mút đuôi dài độ 30 xăng-ti-mét. Mỏ màu nâu, khum khum. Mắt đen hạt nhãn có vành vàng bao quanh. Chim trống có bộ lông đở sẫm điểm sọc nâu, như khoác áo len. Lông bụng và đuôi màu đen nhạt. Chim mái có bộ lông cánh màu nâu vàng, có con màu tía, rất rực rỡ.

Con trống, con mái đều có cặp chân dài và to; bàn chân có bốn ngón, móng chân màu gan gà, cứng, dài, sắc nhọn.

Chim bay thấp, bay chậm; chỉ một quãng ngắn độ 5 – 10 mét là sả xuống các ngọn bần, ngọn mắm quanh hồ, rồi lẩn vào lá xanh.

Thức ăn của bìm bịp là cóc nhái, tôm tép và các loại hạt cây. Những ngày mưa nhiều, bìm bịp kêu lúc mờ sáng, lúc hoàng hôn, tiếng “ì ùm” kéo dài, nghe thật buồn, thật não nuột.

Gần đây, bìm bịp bị săn bắt nhiều. Người ta bắt bìm bịp đem ngâm rượu. Nhìn con chim hiền lành xoã cánh ngâm trong bình rượu thuỷ tinh thật đáng thương.

Bài đoc tham khảo Chim đa đa

Phía Bắc làng tôi có đồi Yên Ngựa, đồi Bạch Xà, đồi Mâm Xôi kéo dài đến năm, sáu dặm. Mua, sim và nhiều cây lúp xúp mọc khắp các dãy đồi. Gần đây, đồi Mâm Xôi đã được trồng bạch đàn và thông xanh biếc.

về mùa xuân, mùa hè, hoa sim, hoa mua nở tím biếc các dãy đồi trông thật đẹp. Đồi Bạch Xà có nhiều dược liệu. Đồi Yên Ngựa có nhiều rắn, rùa, bìm bịp. Đồi Mâm Xôi có nhiều gà gô.

Gà gô còn gọi là chim đa đa. Con trống to gấp đôi, gấp rưỡi con mái. Lông chim màu đen lam ánh thép, có các vân mảnh màu trắng điểm từ đầu tới đuôi. Lông con trống, ở cánh và

đuôi có nhiều vân màu đỏ; con mái có nhiều vân màu nghệ. Lông trắng bao bọc quanh vành mắt và cổ tựa như con chim thắt chiếc khăn tơ. Chim mái nặng độ 3kg, chim trống to, nặng tới 5 – 6 ki-lô-gam. Gà gô có mỏ nhọn, cứng và sắc để kiếm mồi trong các gốc cây, bụi rậm.

Gà gô sống chui rúc nơi núi đồĩcó cây lúp xúp và nhiều cỏ rậm. Thức ăn của chúng là những con mối, con kiến, hạt cây, rễ củ. Chim chỉ rúc, lủi, ít bay, chỉ bay được từng đoạn ngắn và bay thấp.

Trẻ mục đồng quê tôi thường bắt chước và nhại tiếng gáy của gà gô: “Tiếc con tép cha chà!”. Có truyền thuyết kể rằng cò, vạc, đa đa chơi bạc. Vạc thua, nhưng chỉ bán đồng điền cho cò một nửa ngày, vì thế cò ăn ngày, vạc phải ăn đêm. Đa đa thua trang tay, bán sạch ruộng đồng, phải lên đồi núi kiếm ăn. Vì thế, mới kêu, mới gáy: “Tiếc con tép cha chà!”. Bà Huyện Thanh Quan gọi chim đa đa là “cái gia gia” trong bài thơ Qua Đèo Ngang:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Thuở nhỏ, tôi đã nhiều lần lên đồi Mâm Xôi hái sim và nghe chim đa đa gáy. Chim gáy râm ran các dãy đồi từ non trưa hoặc chiều hè. Chim đa đa gáy nghe rất buồn. Mùa sinh sản của đa đa là từ tháng ba đến tháng bảy. Mỗi đàn chỉ có 6 – 8 con.

Thịt chim đa đa rất ngon, là đặc sản. Dọc tuyến đường Trường Sơn, thỉnh thoảng gặp người bán chim đa đa. Chim đa đa đã và đang bị săn bắt dữ dội để phục vụ khách nhậu ở các nhà hàng đặc sản. Loài chim này cần được bảo vệ. Vườn thú Thủ Lệ đã nuôi được chim đa đa và cho sinh sản. Một việc làm thật tốt, đáng được ngợi ca.

Miêu tả về một tấm gương chăm ngoan học giỏi

Bài đoc tham khảo Con cò

ơ vùng đồng bằng Nam Bộ, dọc đôi bờ sông Tiền, sông Hậu có những vườn cò đông tới hàng vạn con, mấy năm gần đây trở thành điểm du lịch hấp dẫn.

Ớ quê tôi, dọc bờ sông Kinh Thầy cũng có luỹ cò. Luỹ cò mùa hè thường có vài trăm con, nghìn con. Họ hàng nhà cò thật đông đúc: cò bợ, cò đen, cò lạo, cò lửa, cò nhạn, cò nơm, cò ruồi, cò thìa, cò xanh, cò trắng, cò quăm…

Cái anh cò quăm đã đi vào ca dao không biết từ bao giờ? “Cái cò là cái cò quăm/Mày hay đánh vợ đêm nằm với ai?/ Có đánh thì đánh ban mai/ Đừng đánh chiều tối kẻo không ai cho nằm!”. Ở thôn Hạ quê tôi cũng có anh cu Chiến, ngoài

30 tuổi, nhác làm siêng ăn, bê tha rượu chè, cờ bạc, hay mắng chửi vợ con, dân làng rất khinh, gọi là “Chiến cò quăm!”.

Luỹ cò làng tôi có nhiều cò lửa, cò xanh, cò trắng. Đẹp nhất, đáng yêu nhất là con cò trắng. Mỗi con nặng ngót một cân. Lông trắng phau. Mỏ dài, cổ cao, chân dài. Cặp mắt màu hạt nhãn. Lúc kiếm mồi cứ lò dò từng bước. Bắt được con tôm, con tép, con nhái, con cua, nghen cổ nuốt một cách ngon lành. Đẹp nhất là lúc bay, đôi cánh vẫy vẫy hoặc xoè rộng như chiếc tàu lượn. Nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa có câu: “Cánh cỏ chớp trắng trên sông Kinh Thầy”…

Con cò là hình ảnh thân thuộc của đồng quê, làng quê Việt Nam. Là biểu tượng tốt đẹp về sự lam lũ, tần tảo, về đức hi sinh và phẩm chất trong sạch của người đàn bà nhà quê. Chắc nhiều người vẫn nhớ bài ca dao: “Con cò mà đi ăn đêm vẫn ngẫm nghĩ và hát Có xáo thì xáo nước trong — Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.

Bài làm Chim thiên đường

Anh trai bạn Ngọc là sĩ quan Công an biên phòng công tác ở miền Tây tỉnh Thanh Hoá trên biên giới Việt Lào về phép. Ngọc được anh trai tặng một đôi chim thiên đường rất đẹp.

Các bạn trong lớp em đã kéo nhau đến nhà Ngọc xem chim thiên đường. Chúng em bảo đó là một cuộc tham quan “miễn phí” rất thú vị.

Hai con chim thiên đường, một trống một mái được “ngự” trong chiếc lồng son. Đúng là sứ giả của nhà Trời, chim thiên đường đẹp quá! Con chim trống to hơn con sáo mỏ vàng, có một cái đuôi đỏ rực dài tới cả gang như hai dải lụa thướt tha. Đầu có mào, lông màu biếc. Mỏ và vành mắt màu xanh da trời. Cánh có ba màu nâu, trắng, đỏ. Lông ngực và bụng trắng phau. Cặp chân màu nâu đen, có bốn móng nhọn. Thiên đường trống không hót nhưng tiếng kêu có nhiều âm điệu, nghe rất vui, rất gợi cảm. Lúc chim trống kêu, con chim mái cứ lim dim đôi mắt.

Thiên đường mái bé hơn con trống. Lông đuôi chỉ dài độ một gang, màu xanh biếc. Mỏ dài màu rêu. Đầu không có mào. Lông ngực và bụng cũng trắng phau. Cặp cánh màu hung có điểm màu nâu, màu xanh. Chim mái không rực rỡ bằng chim trống.

Em chưa nhìn thấy loài chim nào đẹp như chim thiên đường. Bạn Ngọc nói sẽ học cách nuôi và phối giống. Bạn hứa, nếu chim đẻ sẽ tặng em một đôi chim thiên đường để nuôi làm cảnh… Nghe bạn nói mà khấp khởi mừng vui, hi vọng ngày đó sẽ đến sớm.

 

Bài làm Chim vẹt

Vẹt là một loài chim rất đẹp. Vẹt thường bay theo đàn, trên dưói mười con.

Một đàn vẹt thường có đủ màu lông sặc sỡ, có con màu hồng, có con màu biếc, có con màu hung hung đỏ, có con màu vàng chanh. Em chưa nhìn thấy con vẹt nào có bộ lông màu đen.

Chim vẹt chỉ to bằng con sáo đá, nhưng có cái đuôi dài hơn 10 xăng-ti-mét. Vẹt leo trèo giỏi, móng chân nhọn và sắc. Đầu to, mỏ ngắn và khoẻ, mỏ trên cong trùm lên mỏ dưới. Mỏ vẹt màu đỏ hoặc màu hung, có vệt trắng chạy dọc. Mắt vẹt long lanh. Chân vẹt ngắn và khoẻ, có thể leo trèo, đánh đu và đưa thức ăn lên mỏ.

Vẹt sống trên cây, làm tổ trong hốc cây, hốc đất đá. Thức ăn của vẹt là các loại quả và hạt. Tháng sáu, tháng bảy, mùa khế chín, vẹt kéo hàng đàn về vườn bà. Có quả nào chín ngon là chúng ăn hết.

Nhà bạn Bình ở lóp em nuôi được hai con vẹt có bộ lông xanh biếc, cái mỏ đỏ rực. Đôi chim đều biết nói. Hễ ai tới nhà là đôi vẹt cùng cất tiếng khàn khàn: “Chào khách! Chào khách!”.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận