Ngữ văn 6 Bài 27 Lòng yêu nước

Đang tải...

KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1.Bài Văn được trích từ bài báo Thử lửa của nhà văn – nhà báo Nga nổi tiếng I-li-a Ê-ren-bua viết trong thời kì đầu của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược (1941 – 1945) với nội dung : Lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất; đồng thời khẳng định : lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.

2.Bài văn thuyết phục người đọc bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình.

HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1.Đại ý của bài văn :

Tác giả lí giải lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất; đồng thời khẳng định : lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.

2.a) Đoạn văn từ đầu đến lòng yêu Tổ quoc là một đoạn văn có kết cấu chặt chẽ, trong đó :

-Câu mở đầu là: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vặt tầm thường nhất : yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mất của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.

-Câu kết đoạn là :

Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

b)Với ý chính là lí giải về lòng yêu nước, tác giả đã thể hiện một trình tự lập luận :

-Mở đầu, tác giả nêu một nhận định giản dị, dễ hiểu mang tính quy luật : “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất : yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lẽ mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh” ;

-Từ nhận định đó, tác giả đặt “lòng yêu nước” trong thử thách của cuộc chiến tranh vệ quốc để “mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương”, cụ thể là:

+ Người vùng Bắc : nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hày miền Xu-cô-nô, những đêm tháng sáu sáng hồng ;

+ Người xứ U-crai-na : nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh ;

+ Người xứ Gra-di-a : ca tụng khí trời của núi cao, nỗi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị, những tiếng cuối cùng của câu chào tạm biệt;

+ Người ở thành Lê-nin-grát: nhớ dòng sông Nê-va, những tượng bằng đồng, phố phường ;

+ Người Mát-xcơ-va : nhớ như thấy lại những phố cũ, phố mới, điệm Krem-li, những tháp cổ, những ánh sao đỏ…

Tác giả dùng một câu văn hình ảnh để chuyển ý : Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể.

-Cuối cùng, để kết đoạn, tác giả nêu một câu khái quát : Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

3.Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình, ví dụ :

+ Người vùng Bắc… (nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu-cô-nô,… những đêm tháng sáu sáng hồng), ngựời xứ Ư-crai-na (nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh) : nhớ những cảnh vật rất đỗi quen thuộc, từng gắn bó với cuộc sống thanh bình.

+ Người xứ Gru-di-a (ca tụng khí trời của núi cao, nỗi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị, những tiếng cuối cùng của câu chào tạm biệt), người ở thành Lê-nin-grát (nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga đường bệ, những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, phố phường mà môi căn nhà là một trang lịch sử) : đó là nỗi nhớ về vẻ đẹp của ngôn ngữ, lời nói, niềm tự hào về quê hương xứ sở.

+ Người Mát-xcơ-va (nhớ như thấy lại phố cũ, những đại lộ của thành phố mới, điện Krem-li, những thấp cổ – dấu hiệu vinh quang và những ánh sao đỏ) : nỗi nhớ gắn liền vái những vẻ đẹp truyền thống và niềm tin mãnh liệt ở tương lai

Đó là những vẻ đẹp gắn liền với nét riêng của từng vùng, tiêu biểu và có sức gợi nhất, để thể hiện sâu sắc nhất về nỗi nhớ của những người ở vùng đó. Tất cả các nỗi nhớ mang những nét cá biệt đó, khi được liệt kê trong bài tạo nên một sự tổng hoà phong phú, đa dạng về tình yêu của người dân trong cả Liên bang Xô viết.

4.Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước, đó là : Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên ỉòng yêu Tổ quốc ; và không thể sống khi mất nước.

GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI SÁCH GIÁO KHOA

Nếu cần nói đến Vẻ đẹp tiêu biểu về quê hương (hoặc địa phương em đang ở) cần chú ý :

-Giới thiệu các yếu tố : đặc điểm địa lí, truyền thống lịch sử, văn hoá,…

-Cảm tưởng hoặc kỉ niệm sâu sắc của em (hoặc nghe kể lại) về các yếu tố nói trên.

THAM KHẢO

1.I-li-a Ê-ren-bua (1891 – 1967) là nhà văn ưu tú, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô, sinh tại thành phố Ki-ép trong một gia đình Do Thái, cha là viên chức. Ông từng học Trường Trung học số I ở Mát-xcơ-va. Thòi kì cách mạng 1905 – 1907, cậu học sinh I Ê-ren-bua tham gia tổ chức bí mật của Đảng Bôn-sê-vích.1908, bị bắt, bị chính quyền Nga hoàng kết án và buộc phải sang nước Pháp sống cuộc đời lưu vong. 1910, cho xuất bản tại Pa-ri một số tuyển tập thơ… ; từ đó đến 1916 tiếp tục chọ ra đời nhiều tập thơ. Thơ thời kì này vang lên âm hưởng phê phán xã hội châu Âu, phê phán chiến tranh đế quốc, chờ mong sự sụp đổ của thế giới cũ. Từ 1915 đến 1917, làm phóng viên và viết kí sự về chiến tranh cho hai tờ báo Nga ở Mát-xcơ-va và Pê-tơ-rô-grát. 1917, trở về nước Nga, nhưng lũc đầu ông không nhận thức được chân lí của Cạch mạng tháng Mười… Mùa xuân 1921,

I.E-ren-bua đi ra nước ngoài và viết tiểu thuyết châm biếm – triết lí Những cuộc hành trình kì lạ của Khu-li-ô Khu-ren-nhỉ-tô và những học trò của ông (1922) tỏ rõ thái độ phê phán và phủ định đối với xã hội châu Âu và chiến tranh đế quốc, đã được Lê-nin đánh giá tốt… Tuy nhiên, phải đên cuối những năm 20 và đầu những năm 30 mới là thời kì chuyển biến của nhà văn về quan điểm triết học và nghệ thuật. Đó cũng là kết quả của việc ông tích cực thâm nhập vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết. Trong thời gian cuộc chiến tranh vệ quốc của Liến Xô ngợi ca chủ nghĩa yêu nước Xô viết, nâng, I. Ê-ren-bua nổi tiếng với hàng nghìn bài báo và chính luận cao lòng căm thù chủ nghĩa phát xít, khẳng định niềm tin đối với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Những năm Đại chiến II, tiểu thuyết Làn sóng thứ chín và truyện vừa Tuyết tan của I. Ê-ren-bua gây nên những cuộc tranh luận gay gắt.

1.Ê-ren-bua đã được nhận : Giải thưởng Quốc gia 1942 với tiểu thuyết Pa-ri sụp đổ (1941) ; Giải thưởng Quốc gia 1948 với tiểu thuyết Bão táp (1946 – 1947) ; Giải thưởng Lê-nin về những cống hiến cho sự nghiệp “củng cố hoà bình giữa các dân tộc”.

2.“Người ta đi lên chiến đấu như I-li-a Ê-ren-bua nói – với lí trí không, không đủ. Phải có những tình cảm những tình cảm lớn ấy, ở I. Ê-ren-bua nhà báo, thấm vào lòng người đọc, trầm trầm, kín đáo, sinh động, thật khoẻ…

Nhà văn lớn Xô viết ấy, người chiến sĩ hoà bình ưu tú ấy cũng là một người bạn thân của nhân dân ta. Trong tiểu thuyết dài cũng như những bài văn ngắn gần đây của ông đều có nhắc ít hay nhiều đến Việt Nam chiến đấu. Năm 1951, nhân sang dự quốc khánh Trung Quốc ở Bắc Kinh, I-li-a Ê-ren-bua có tuyên bố hết sức nhiệt tình với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, rất ca ngợi nhân dân ta anh dũng, nhận định rõ địa vị quan trọng của kháng chiến Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ hoà bình, tỏ rõ lòng tin chắc chắn ở tất thắng của Việt Nam, của hoà bình.

Lòng tin của I-li-a Ê-ren-bua, lòng tin của chúng ta hôm nay đã trở thành sự thật huy hoàng trên đất nước chúng ta nghìn năm yêu dấu.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận