Ngữ văn 6 Bài 25 Cô Tô

Đang tải...

KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1.Bài Cô Tô được trích từ một tác phẩm kí dài cùng tên của Nguyễn Tuân. Bài (trích) này thể hiện vẻ đẹp sinh động và tươi sáng của bức tranh thiên nhiên cũng như đời sống con người ở. vùng đảo Cô Tô, cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh chừng 100 ki lô mét.

2.Bài văn thể hiện tài năng quan sát và miêu tả tinh tế như một sở trường đặc biệt của Nguyễn Tuân.

HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1.Bài văn có thể chia làm ba đoạn :

-Đoạn 1 (Từ đầu đến theo mùa sóng ở đây) : cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua.

-Đoạn 2 (Từ Mặt trời lại rọi lên đến là là nhịp cánh…): Cảnh tượng tráng lệ. và hùng vĩ khi mặt trời mọc trên biển.

-Đoạn 3 (Từ Khi mặt trời đã lên đến hết) : cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô.

2.Vẻ đẹp của đảo Cô Tò sau khi trận bão đi qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng chú ý :

-Một ngày trong trẻo, sáng sủa;

-Cây thêm xanh mượt; .

-Nước biển lam biếc đặm đà hơn ;

– Cát lại vàng giòn hơn ;

-Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.

Ở đây, các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng (trong, trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn) trong kết cấu câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật trong sáng, tinh khôi.

Nghệ thuật dùng tính từ đặc tả nói trên kết hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung và cảm nhận vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô.

3.Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp, được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi ; mặt trời nhú lên dần dần,… ; Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn ; Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng ; Y như một mầm lễ phẩm)… Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.

4.Trong đoạn cuối, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh :

-Quanh giếng nước ngọt : vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. (Sử dụng hình ảnh so sánh)

-Chỗ bãi đá : bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp… (Sử dụng lượng từ không xác định)

-thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về. (Sử dụng liên từ và điệp từ)

Đó là cảnh sinh hoạt và lao động khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão : Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiển mớm cá cho lũ con lành. Hình ảnh so sánh liên tưởng, độc đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân – “người đi tìm cái đẹp” toàn bích và hài hoà.

GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI SÁCH GIÁO KHOA

1.Khi viết đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc, chú ý các yếu tố có liên quan và phù hợp với không gian (trên biển, trên sông, trên núi hay ở đồng bằng).

2.Chép lại và học thuộc đoạn văn trên theo yêu cầu trong sách giáo khoa.

1.Về tác giả

Nguyễn Tuân là tên khai sinh (nhà văn còn có các bút danh khác : Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa sắc,…), sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán : làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhãn Mục (nay là Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội ; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

Thời thanh, thiếu niên, Nguyễn Tuân theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung ; Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung học ở thành phố Nam Định Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần tại Băng Cốc – Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bẳt tại Hà Nội, giam tại Nam Định (1941)… Từ những năm 30, Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí .Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết và nổi tiếng từ năm 1939 với Ngọn đèn dầu lạc ; năm 1940 với Vang bóng một thời…

Sau Cách mạng, năm 1946, Nguyễn Tuân cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại khu V (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sông và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội, Từ năm 1958, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II).

Những tác phẩm đã xuất bản : Ngọn đèn dầu lạc(phóng sự, 1939) ; Vang bóng một thời (truyện ngắn, 1940) ; Chiếc lư đồng mắt cua (tuỳ bút, 1941) ; Tàn đèn dầu lạc (phóng sự, 1941) ; Một chuyến đi (du kí, 1941) ; Tưỳ bút I (tuỳ bút, 1941) ; Tóc chị Hoài (tuỳ bút, 1943); Tuỳ bút II (tuỳ bút, 1943); Nguyễn (truyện ngắn, 1945) ; Chùa Đàn (truyện, 1946) ; Đường vui (tuỳ bút, 1949) ; Tình chiến dịch (bút kí, 1950) ; Thắng càn (truyện, 1953) ; Chú Giao làng Seo (truyện thiếu nhi, 1953) ; Bút kí Trung Hoa (1955) ; Tuỳ bút kháng chiến (tuỳ bút, 1955) ; Tụỳ bút kháng chiến và hoà bình (tuy bút, 1956) . ; Truyện một cải thuyền đất (truyện thiếu nhi, 1958) ; Sông Đó (tuy bút, 1960) ; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ bút,1972); Kí (1976); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 1: 1981, tập II: 1982).

Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình văn học và dịch giới thiệu Văn học. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996). (Theo Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội Nhà văn, 1997)

Nếu quan niệm về Cái Đẹp của Nguyễn Tuân trước 1945 chỉ là “tôi muốn mỗi ngày có được cái say sưa như là men rượu tối tân hôn”, thì sau 1945, Nguyễn Tuân nhận thấy : “Phong cảnh tự nhiên của ta thật là lớn đẹp, con người mình cũng phải lớn đẹp theo lên với nó. Núi sông như lúc nào cũng nhắc nhở ta… mỗi ngày trưởng thành lại đem thêm cái đẹp hình học, cái đẹp kĩ thuật, cái đẹp nhân tạo và hiện đại vào giữa cái đẹp thiên tạo đủ cả núi dựng thành, sông uốn khúc. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân không phải là cái đẹp mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng lặng, mà là cậi đẹp tạo hình, cồ góc cạnh, nhiều khi dữ dội.

… Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa Cái Đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam. (Hoài Anh, Chân dung văn học, NXB Hội Nhà văn, 2001)

2.Về tác phẩm

Tìm đọc thêm trong : Bình văn, NXB Giáo dục, 1997.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận