Ngữ văn 6 bài 21 Vượt thác

Đang tải...

KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1.Đoạn trích Vượt thác trích trong truyện Quê nội của nhà văn Võ Quảng, tả chuyện ngược dòng sông Thu Bồn trên con thuyền do dượng Hương Thư điều khiển, đoạn từ làng Hoà Phước lên nguồn để lấy gỗ dựng trường học sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công.

2.Kết hợp giữa tả thiên nhiên với tả người, qua việc sử dụng nghệ thuật so sánh và nhân hoá, đoạn trích có thể được xem như một bài văn miêu tả về cảnh quan thiên nhiên trên sông và hài bờ dọc chuyến đi, từ vùng đồng bằng vượt thác ghềnh qua vùng núi – mà trung tâm của bức tranh miêu tả là hình ảnh con người trong cuộc đối mặt với những thử thách của thiên nhiên.

HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1.Bài văn miêu tả một cuộc vượt thác của con thuyền theo trình tự thời gian và không gian:

—Con thuyền qua đoạn sông phẳng lặng trước khi đến chân thác ;

—Con thuyền vượt qua đoạn sông có nhiều thác dữ ;

—Con thuyền ở đoạn sông đã qua thác dữ.

Theo trình tự trên, có thể chia bố cục của bài văn như sau :

—Đoạn 1 : Từ đầu đến Thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước.

—Đoạn 2 : Từ Đến Phường Rạnh đến thuyền vượt qua khỏi thác Cổ Cò.

—Đoạn 3 : Còn lại.

2.Cảnh dòng sông và hai bên bờ qua sự miêu tả ở trong bài đã đổi thay theo hành trình của con thuyền ngược dòng, theo trật tự không gian. Vị trí quan sát để miêu tả của người kể chuyện trong bài : trên con thuyền nhìn dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Vị trí ấy thích hợp với việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và hoạt động của con người một cách linh hoạt.

Chẳng hạn:

-Tả cảnh sông ở vùng đồng bằng thì êm đềm, thơ mộng, thuyền rẽ sóng lướt bon bon, tầm nhìn mở ra phóng khoáng : chung quanh là những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít;

-Tả cảnh sắp đến đoạn nguy hiểm có nhiều thác ghềnh thì kéo đối tượng vào cận cảnh : Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt;

-Đến đoạn sông có thác dữ thì đặc tả : Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn.

3.Cảnh con thuyền vượt thác được miêu tả qua các yếu tố:

-Tinh thần chuẩn bị của con người : nấu cơm ấn để được chắc bụng ; ba chiếc sào bằng tre bịt đầu sắt đã sẵn sàng ;

-Dòng nước hung hãn : nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng , chảy đứt đuôi rắn.

Trong khung cảnh đó, hình ảnh dượng Hương Thư được miêu tả nổi bật:

-Ngoại hình gân guốc, chắc khoẻ : đánh trần, như một pho tượng đồng đúc, cấc bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ;

-Động tác mạnh mẽ, dứt khoát : có người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng “soạc”, ghì chặt trên đầu sào, lấy thế trụ lại.

Miêu tả dượng Hương Thư đối đầu với thác dữ, tác giả đã dùng các cách so sánh :

-Dùng thành ngữ dân gian, so sánh ngang bằng : động tác thả sào và rút sào nhanh như cắt; hình ảnh con người như một pho tượng đồng đúc.

-Dùng hình ảnh cường điệu : dượng Hương Thư giọng như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ gợi sự liên tưởng với những hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc và sức mạnh phi thường của những Đăm Săn, Xinh Nhã bằng xương bằng thịt đang hiển hiện trước mặt người đọc, nhằm khắc hoạ nổi bật và tôn vinh sức mạnh của con người nhằm chế ngự thiên nhiên. Ngoài ra, cách so sánh này còn đối lập mạhh mẽ với một hình ảnh dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ – qua đó tác giả khẳng định một phẩm chất đang quý của người lao động : khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trong công việc, tròng khó khăn, thử thách.

4.Ở đoạn đầu và đoạn cuối của bài có hai hình ảnh miêu tả những cây cổ thụ trên bờ sông. Đó là các hình ảnh :

-Dọc sông, những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước.

-Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước.

Với câu trước, tác giả sử dụng biện pháp nhân hoá hình ảnh chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước (chuyển nghĩa theo biện pháp ẩn dụ) : thiên nhiên như cũng có tâm trạng lo lắng trước thử thách mà những người trên thuyền sắp phải đương đầu.

Với câu sau tác giả sử dụng biện pháp so sánh hình ảnh những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp như những cụ già vung tay hô đám con cháu (chuyển nghĩa theo cơ chế hoán dụ) : thiên nhiên như cũng phấn khích trước niềm vui chinh phục và chiến thắng những thử thách cam go để tiến về phía trước.

5.Một số cảm nhận về thiên nhiên và con người lao động được miêu tả trong bài văn:

Bài văn miêu tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn, đoạn từ trước địa phận Phường Rạnh đến Trung Phước. Bằng các biện pháp nghệ thuât tả cảnh, tả người thông qua Các hình ảnh nhân hoá và so sánh, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp quả cảm của con người .trên khung cảnh thiên nhiên vừa thơ mộng vừa dữ dội; đồng thời ca ngợi phẩm chất của con người lao động Việt Nam dũng cảm mà khiêm nhường, giản dị.

GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI SÁCH GIÁO KHOA

Hai bài Sông nước Cà Mau và Vượt thác đều miêu tả cảnh sông nước. Nét đặc sắc của phong cảnh thiên nhiên được miêu tả ở mỗi bài:

-Trong bài Sông nước Cà Mau, tác giả đi từ những ấn tượng khái quát đến miêu tả cụ thể, đã đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc sắc về thiên nhiên và cuộc sống đậm chất Nam Bộ thông qua việc tái hiện quang cảnh thiên nhiên và những sinh hoạt trên vùng sồng nước Năm Căn.

-Bài Vượt Thác tả cảnh quan hai bên bờ sông theo hành trình của con thuyền qua những địa hình khác nhau, sau đó tập trung miêu tả cảnh vượt thác. Tả cảnh vượt thác, tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp dũng cảm và sức mạnh phi thường của con người lao động trên cảnh thiên nhiẽn dữ dội và hùng vĩ.

THAM KHẢO

Nhà văn Võ Quảng sinh năm 1920, quê ở Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Võ Quảng tham gia cách mạng từ năm 1935, chính thức gia nhập tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế. Năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941 bị Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ. Sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở xã Đại Hoà. Năm 1945 làm Uỷ viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Sau đó làm Phó Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hành chính Đà Nẵng. Năm 1947 làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) toà án quân sự miền Nam Việt Nam. Từ 1948 đến 1955 làm Uỷ viên Ban Thiếu niên Nhi đồng Trung ương, đồng thời lần lượt phụ trách Nhà xuất bản Kim Đồng và Xưởng phim hoạt hình. Năm 1971 về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, phụ trách Văn học thiếu nhi.

Tác phẩm đã xuất bản Cái thăng (truyện, 1961) ; Chỗ cây đa làng (truyện, 1964) ; Cái mai (truyện 1967) ; Những chiếc áo ấm (truyện 1970) ; Quê nội (truyện 1973) ; Bài học tốt (truyện, 1975) ; Tảng sáng (truyện 1978) ; Vượn hú (truyện 1993); Kinh tuyến vĩ tuyến (truyện 1995) \Gà mái hoa (thơ, 1957) ; Thấy cái hoa nở (thơ, 1902) ; Nắng sớm (thơ, 1965); Anh đom đóm (thơ 1970); Măng tre (thơ 1972); Quả đỏ (thơ 1980); Ánh nắng sớm (thơ 1993) ; Sơn Tình Thuỷ Tinh, Con 2, Những chiếc áo ấm (kịch bản phim hoạt hình) ; Tuyển tập Võ Quảng (1998)

-Ngoài ra nhà văn còn viết một số bài nghiên cứu phê bình văn học thiếu nhi, dịch và biên soạn, viết bằng tiếng Pháp.

Tham khảo bài học :

Ngữ văn 6 Bài 20 Bức tranh của em gái tôi

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận