Kể về một di tích lịch sử – văn hóa – Tuyển chọn bài văn kể chuyện lớp 5

Đang tải...

Nhằm củng cố, mở rộng, bổ sung thêm kiến thức cho các em học sinh, Hoc360.net sưu tầm gửi tới các em Kể về một di tích lịch sử – văn hóa  – Tuyển chọn bài văn kể chuyện lớp 5. Chúc các em học tốt!

Kể về một di tích lịch sử – văn hóa

Tuyển chọn bài văn kể chuyện lớp 5

Bài đọc tham khảo 

Cửu Đỉnh trên sân Thế Miếu cố đô Huế

Ở Đại Nội, hiện còn khá nhiều tác phẩm nghệ thuật lớn bằng đồng dùng để trang trí tại các công trinh kiến trúc, như Phường Môn (ở hai đầu cầu Trung Đạo), Nghê đồng (trên sân điện Thái Hoà và Thế Miếu), Vạc đồng (trên sân điện Cần Chánh, điện Càn Thành…), Lư đồng (trên sân Duyệt Thị Đường…), nhưng có giá trị đặc biệt hơn hết là chín cái đỉnh đồng trên sân Thế Miếu, thường gọi là Cửu Đỉnh.

Cửu Đỉnh được bộ Công đúc tại Huế từ cuối năm 1835, đến đầu năm 1837 thì hoàn thành. Ngày 04 – 3 – 1837, triều đình tổ chức một lễ khánh thành rất lớn dưới sự chủ trì của vua Minh Mạng và Cửu Đỉnh được đặt tại vị trí hiện nay.

Viết bài văn bia ở lăng Minh Mạng để ca tụng công đức của cha, vua Thiệu Trị lại ghi rằng: “Chú Cửu Đỉnh đĩ tượng thành công”. Cửu Đỉnh biểu thị ước mơ về sự trường tồn mãi mãi của triều đại nhà Nguyễn và ca ngợi sự giàu đẹp của đất nước.

Khi đúc một đỉnh, bộ Công phải dùng sáu mươi cái lò nấu đồng, mỗi lò nấu chảy được khoảng ba mươi lăm ki-lô-gam đồng, rồi tuần tự đổ vào khuôn. Khuôn úp ngược xuống mặt đất. Đồng nấu chảy đổ vào một trong ba chân đỉnh (Theo Thái Văn Kiểm).

Mặt trước mỗi hông đỉnh đều đúc nổi hai chữ Hán khá ỉớn mà chữ cuối luôn luôn không thay đổi là chữ Đỉnh và chữ kia là tên gọi tắt miếu hiệu của từng vị vua nhà Nguyễn. Những chữ chỉ tên của các đỉnh ấy là Cao (miếu hiệu của vua Gia Long), Nhãn (Minh Mạng), Chương (Thiệu Trị), Anh (Tự Đức), Nghị (Kiến Phúc), Thuần (Đồng Khánh), Tuyên (Khải Định), Dũ và Huyền (Hai tên đỉnh sau cùng này chưa kịp tượng trưng cho vua nào thì triều đại nhà Nguyễn chấm dứt vào năm 1945).

Ngoài ra, quanh hông mỗi đỉnh đều đúc nổi mười bảy cảnh vật của nước ta; chia ỉàm ba hàng, mỗi hàng bao gồm một chủng loại và trên mỗi hình ảnh đều có khắc chữ chỉ tên từng cảnh vật.

Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự đối diện vớỉ các án thờ trong Thế Miếu (trừ hai đỉnh hai đầu). Riêng Cao Đỉnh được đặt hơi nhích về phía trước một khoảng gần ba mét, vì vua Minh Mạng cho rằng vua Gia Long là vị vua có công lớn nhất đối với triều đại.

Kích thước và trọng lượng các đỉnh không bằng nhau. Đỉnh cao nhất là 2,5 mét và nặng nhất là 2601 ki-lô-gam (Cao Đỉnh). Đỉnh thấp nhất là 2,31 mét và nhẹ nhất là 1935 ki-lô-gam (Huyền Đỉnh).

Các cặp quai trên miệng Cửu Đỉnh đều đúc với các dạng khác nhau: cặp vuông, cặp tròn, cặp xoắn như dây thừng… Chân mỗi đỉnh cũng một khác, có bộ thẳng, có bộ uốn khúc theo kiểu chân quỳ của sập gụ…

Các cảnh vật trên hông Cửu Đỉnh lại càng khác nhau hơn. Bằng nghệ thuật đúc nổi và chạm khắc tinh vi, các nghệ nhân thời Minh Mạng đã thể hiện một cách khái quát nhưng súc tích sự giàu đẹp của Tổ quốc: tinh tú, núi sông, cửa biển, cửa ải, cây cối, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền… Nếu ở Tuyên Đỉnh có hình ảnh sông Hồng thì Huyền Đỉnh có sông Cửu Long và Nhân Đỉnh có sông Hương. Nếu Cao Đỉnh có cọp trên rừng thì Nhân Đỉnh có cá voi dưới biển. Các hình ảnh đều biểu hiện những cái có thật và rất gần gũi với đất nước và con người Việt Nam.

Ngoài tính dân tộc, các hình ảnh trên hông Cửu Đỉnh còn mang đậm tính dân gian, gắn liền với cuộc sống ở chốn đồng nội. Bên cạnh rồng, công, voi, ngựa, còn có những con vật bình thường mà nông dân ta tiếp xúc hằng ngày như gà, lợn, cá, hến, đuông dừa, cà cuống… Bên cạnh cây gỗ lim, quế, thông, còn có những loại thảo mộc rất thông dụng đối với mọi người như lúa, trầu, mít, củ hành, củ nghệ, rau tía tô, cây đậu phụng…

Theo một nhà nghiên cứu thời Pháp thì Cửu Đỉnh đã “tạo thành một bản tài liệu biểu tỏ kiến thức bách khoa của các vị nho sĩ thông thái trong triều đình Huế năm 1836, tài liệu được giữ nguyên vẹn dưới mắt chúng ta trong khi những tài liệu khác đã bị tiêu huỷ hoặc bị sai lạc” (R. p. Barnouin, Les bas – relie/s cles urnes dynastiques de Hué, B.S.E.I…, số 3, 1974, tr.426). Khi đã xem xét tất cả các hình ảnh trên Cửu Đỉnh, có lẽ mọi người dễ dàng thống nhất với nhau rằng: “Đây là cuộc triển lãm bao gồm những tác phẩm mĩ thuật rất tinh tế với nhiều kĩ xảo, tinh thần khoa học, lại xây dựng trên đời sống trí tuệ và tâm linh của cả một dân tộc mà cho đến ngày nay giá trị ấy càng được xác định hơn. Tâm hồn của đất nước truyền thống biểu hiện tài tình… để ca ngợi Tổ quốc hoa gấm, nước biếc non xanh giàu đẹp, vững bền” (Huỳnh Hữu Uy, Cửu Đỉnh – Biểu tượng của vãn hoá và nghệ thuật Huế, Đất mới, Bộ 2, số 3, tháng 3 – 1990).

Xét chung về hình thức, với vẻ giống nhau trong tổng thể và khác nhau trong chi tiết như đã nói trên, có lẽ các tác giả tạo hình Cửu Đỉnh muốn biểu hiện những biến tấu riêng rẽ trong một chủ đề nhất quán; hay nói cách khác, họ muốn diễn tả sự phong phú và đa dạng của đất nước, con người trong một thể thống nhất: Việt Nam dưới thời Minh Mạng là một giang sơn đã được thống nhất hoàn toàn.

Cửu Đỉnh là một tác phẩm nghệ thuật lớn bằng đồng, có giá trị về nhiều mặt. Nó vừa biểu hiện một trình độ hiểu biết uyên bác, vừa hàm chứa tinh thần dân tộc đậm đà, vừa cho thấy kĩ thuật đúc đồng điêu luyện có truyền thống của Việt Nam vào nửa đầu thế kỉ XIX. Đáng tự hào biết bao khi đứng trước một di sản văn hoá nghệ thuật quý báu như vậy của tiền nhân!

Phan Thuận An

Theo Kinh thành cổ kính – cố đô Huế đẹp và thơ

Xem thêm: Kể về một nhân vật lịch sử, một anh hùng dân tộc – Tuyển chọn bài văn kể chuyện lớp 5 tại đây. 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận