Hướng dẫn viết bài làm văn số 6: Nghị luận văn học – Sách bài tập ngữ văn lớp 10 tập 2

Đang tải...

VIẾT BÀI LÀM VĂN SỐ 6

Phần hai: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

BÀI TẬP

1. Ở cấp THCS, anh (chị) đã được làm quen với các kiểu bài giải thích và chứng minh. Hãy nhớ lại những kiến thức đã học và cho biết:

a) Những kiểu bài đó thuộc phương thức biểu đạt nào : tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận hay hành chính – công vụ ? Vì sao ?

b) Mục đích cần đạt tới khi ta làm nhiệm vụ giải thích có khác biệt gì so vói mục đích cần đạt tới khi ta làm nhiệm vụ chứng minh không ? Nếu có thì khác biệt ở chỗ nào ?

c) Có ngưòi nói rằng giải thích và chứng minh khác nhau ở chỗ : giải thích cần lí lẽ nhiều, dẫn chứng ít, còn chứng minh thì ngược lại, lí lẽ chỉ cần ít, còn dẫn chứng phải có thật nhiều.

Anh (chị) thấy ý kiến ấy có đúng không ? Vì sao đúng (hoặc chưa đúng) ?

d) Từ đó, anh (chị) có thể rút ra bài học cần thiết nào có thể giúp mình làm tốt một bài văn giải thích (hoặc chứng minh) ?

2. Nêu phương hướng làm bài của anh (chị) khi gặp những đề bài cụ thể sau :

a) Dựa vào những dẫn chứng lấy từ bản Đại cáo bình Ngô, hãy chứng minh : “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người.”

(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc (1962),

in trong: Nguyễn Trãi, Thơ và đời, NXB Văn học, 1997, tr. 56)

b) Trong bài Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu có viết hai câu :

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

Nhưng đến hai dòng cuối, ông lại để người khách chơi sông kết thúc khúc hát của mình bằng những câu :

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

(Ngữ văn 10, tập hai, tr.6)

Ai đó có thể thắc mắc : Những dẫn chứng trên đây cho thấy, hình như tác giả bài phú tự mâu thuẫn với mình. Nếu trường hợp đó xảy ra, anh (chị) sẽ giải đáp cho người ấy thế nào ?

 

GỢI Ý LÀM BÀI

1. Cần thấy rõ:

– Trong văn nghị luận, giải thích và chứng minh là hai phép lập luận khác nhau, nhằm tới hai mục đích khác nhau. Phép lập luận giải thích có mục đích đưa một/nhiều người từ chỗ chưa hiểu tới chỗ hiểu ra một điều nào đó (gọi là điều cần giải thích). Trong khi chứng minh là phép lập luận nhằm đưa một/nhiều người từ chỗ còn hoài nghi, “bán tín bán nghi” tới chỗ tin rằng một điều nào đó (gọi là điều phải chứng minh) là đúng với lẽ phải hoặc/và sự thật, có căn cứ rõ ràng trong thực tế. Do vậy, văn giải thích, muốn được hiểu thì cần rành rẽ, dễ hiểu. Còn văn chứng minh phải gồm các bằng cứ đủ để người ngờ vực nhất cũng không thể không tin.

– Thước đo thành công của một bài giải thích (hoặc chứng minh) là ở chỗ, bài văn ấy làm sáng tỏ được điều cần giải thích (hay điều phải chứng minh) đến mức nào chứ không hề ở chỗ người nói/viết dùng lí lẽ nhiều hơn hay ít hơn dẫn chứng.

– Từ đó, muốn làm tốt một bài giải thích (hoặc chứng minh), người nói/viết cần cố thử đặt mình vào địa vị của ngưòi chưa hiểu (hoặc chưa tin) một điều gì đó, hình dung xem đâu là chỗ họ còn chưa hiểu (chưa tin), để tìm ra cách thức hữu hiệu nhất đưa họ tới chỗ hiểu và tin, tức là thật sự sáng tỏ vấn đề.

 

2. a) Nên lưu ý :

Trước khi chứng minh, cần làm rõ khái niệm đóng vai trò trung tâm trong toàn lời nhận định – khái niệm dân (lớp người đông đảo và chịu nhiều đau khổ nhất trong xã hội bấy giờ). Có thể so sánh qua với các tác phẩm tiêu biểu nhất thời ấy (Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ), để người nghe /đọc thấy sự gắn bó với những người cùng khốn là nội dung làm nên nét ưu việt, sự đặc sắc hiếm có của Đại cáo bình Ngô.

– Nên dựa vào đề bài để lấy những dẫn chứng phù hợp nhằm làm rõ tư tưởng thường dân, thực sự vì dân, do dân của Nguyễn Trãi lần lượt theo ba khía cạnh :

+ Với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân. Tình thương của ông chỉ đặt, và đặt hẳn vào những ngưòi lao động bị giết tróc, hành hạ, bóc lột và đè nén tàn tệ, dã man, với nhiều hình ảnh, chi tiết cụ thể, chân thực, đầy chất hiện thực rất lạ, rất đặc biệt trong thứ văn chương còn thiên về quy phạm, ước lệ trong thời ấy.

+ Với Nguyễn Trãi, để cứu nước phải dựa vào dân, những người dân cày hay người đi ở (manh lệ). Tác giả không coi nhẹ vai trò của những bậc hào kiệt, nhưng ngay cả khi “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”, sức mạnh vô địch của cuộc khỏi nghĩa vẫn được làm nên từ sự đoàn kết của nhân dân đông đảo, của đội quân phụ tử, không tài giỏi như Hậu Nghệ, Bàng Mông, nhưng mang khí thế ngất trời của khối nhân dân đồng lòng, đồng sức, để trở thành chóp giật, sấm vang, cơn gió to làm cạn khúc sông, mòn đá núi.

+ Với Nguyễn Trãi, cứu nước là để đem lại thái bình cho dân. Công cuộc điếu phạt không có mục đích nào khác hơn là để an dân. Cách kết thúc chiến tranh kì diệu nhất, “chưa thấy xưa nay” là làm sao để bảo toàn được “đức hiếu sinh”, giữ được “toàn quân”, “để nhân dân nghỉ sức”, để “mở nền thái bình muôn thuở”.

Tham khảo cách chọn đưa dẫn chứng cho bài làm này qua đoạn trích sau đây :

“Nguyễn Trãi suốt đời mang một hoài bão lớn : làm gì cho dân, ngưòi dân lầm than cực khổ. Bắt đầu Bình Ngô đại cáo có câu : “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, chữ “an” ở đây có nghĩa là an cư lạc nghiệp, cùng một ý với câu cuối của Bình Ngô đại cáo : “nền thái bình muôn thuở” […].

Bình Ngô đại cáo là khúc ca hùng tráng bất hủ của dân tộc ta. Hãy nghe Nguyễn Trãi lên án giặc ngoại xâm :

Tát cạn nước Đông Hải, khôn rửa sạch tanh hôi,

Chặt hết trúc Nam Son, khó ghi đầy tội ác

Nghĩ khó đội trời cùng quân địch,

Thề không chung sống với giặc thù.

và đây là mấy câu diễn tả thế thắng của quân ta :

Voi uống mà cạn hết nước sông,

Gươm mài mà khuyết mòn đá núi,

Cứu binh hai lộ kéo sang, chửa quay chân đã bại ;

Cùng khấu các thành đã sợ, đều cởi giáp ra hàng.

Tướng giặc bị tù, vẫy đuôi cọp đói cầu thương hại

Uy thần chẳng giết, thể lượng đất trời đức hiếu sinh.

rồi đến đqạn cuối, lúc dẹp xong giặc ngoại xâm :

Nước nhà từ nay bền vững,

Non sông bởi đó đẹp tươi,

Càn khôn bĩ cực thái lai,

Nhật nguyệt tối rồi sáng tỏ

Để mở nền thái bình muôn thuở,

Để rửa điều hổ thẹn nghìn thu.

(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc,

Sđd, tr.57-59)

b) Khi thực hiện bài tập này, cần cố gắng làm rõ mấy nội dung sau :

– Đúng là mới thoạt đọc, dễ tưởng tác giả nói lên những nhận định có vẻ mâu thuẫn với nhau, nhất là khi ta đặt câu : Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở (tinh thần là thừa nhận vai trò của “đất hiểm”) bên cạnh các chữ : Bởi đâu đất hiểm (tinh thần dường như là không thừa nhận).

– Nhưng xét kĩ thì thấy không hẳn thế. Bởi :

+ Cả hai cặp câu đều nhắc đến thế đất (địa lợi) và con người (nhân hoà), các yếu tố có thể xét đến như những căn nguyên làm nên chiến thắng.

+ Cả hai cặp câu đều khẳng định : trong hai nhân tố ấy, con ngưòi luôn giữ vai trò quyết định. Hãy chú ý rằng, trong đoạn trích trên, đất chỉ được nhắc đến trong duy nhất một câu. Còn vai trò của con người đã được Trương Hán Siêu nói kĩ và đề cao hơn đất nhiều lần (có thể đọc lại 5 dòng tiếp theo câu : Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an trong bài phú).

Về các mặt này, tư tưởng của tác giả luôn luôn nhất quán.

Tuy nhiên, không thể không thấy rằng, từ :

Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở.

Cũng nhờ : Nhân tài giữ cuộc điện an.

đến :

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

tư tưởng của tác giả không đứng yên, mà có vận động và phát triển, theo hướng mỗi lúc một đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. Vai trò của đất ít quan trọng đi, và vai trò hết sức quan trọng của con người có địa vị thống lĩnh, bao trùm. Và nếu trong đoạn trên, con người còn được ngợi ca ở sự tài giỏi, anh minh thì đến những khúc hát của các bô lão và người khách chơi sông ở cuối bài, cái được đề cao đến mức tuyệt đối ở con người đã chuyển sang lĩnh vực của đức, của chính nghĩa, về mặt này, công lao rất to lớn của Trương Hán Siêu, qua Phú sông Bạch Đằng, là ở chỗ : ông đã sớm ghi lại một trong những chân lí đã làm nên truyền thống quý báu nhất trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam ta.

 

Xem thêm Hướng dẫn phân tích Tình cảnh lẻ loi

của người chinh phụ tại đây.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận