Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình quê – Bình giảng văn 7

Đang tải...

Trong thời kì văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người,… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua hai bức tranh cảnh vật và con. người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.

Bài thứ nhất : Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra).

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Mục đồng địch lí ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là :

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác cố dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Tương truyền : sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát.

Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả :

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có đường không

Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhoà, mờ tỏ, bán vô bán hữu nửa như có, nửa như không. Khói toả từ đâu ra thế ? Phải chăng, đó là nhũng làn sương chiều lãng đãng hoà quyện với những vầng khói thổi cơm từ nhũng mái nhà lan toả thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng, thanh thản, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế ? Ngoại cảnh và tâm cảnh hoà hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động :

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi ! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hoà nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hoà với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà súng tác những vần thơ gợi hình gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông bộc lộ một tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điểu đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần.

Bài thứ hai : Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữ Hán viết theo thể thơ khác và khá dài. Ở đây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thể thơ lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc :

Côn Sơn suối chảy rì rầm…

Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng : ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hoà bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ở ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hoá. Bài thơ Côn Sơn ca có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thuỷ hữu tình. Đây là đất được phong của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ở đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri kỉ tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hoá bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài Côn Sơn ca là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi.

Trước hết, chúng ta cần hiểu đại từ “ta” trong đoạn thơ là để chỉ ai ? “Ta” chính là Nguyễn Trãi. Trong đoạn thơ tám dòng lục bát mà xuất hiện năm lần đại từ “ta”. “Ta” hiện ra liền mạch, nối tiếp trong những dòng thơ tám âm tiết, riêng dòng thứ sáu “ta” điệp hai lần liền : “ta lên ta nằm”. Nếu để ý sẽ thấy kết cấu đoạn thơ khá chặt chẽ. Câu sáu tả cảnh, câu tám xuất hiện “ta” với những hành động cụ thể mang ý nghĩa tác giả tự hoạ chân dung mình. Điều đó gợi cảm giác gi.ữa thiên nhiên cây rừng, đá núi, suối reo của Côn Sơn, hình ảnh Nguyễn Trãi thấp thoáng, đan cài, vấn vít, hoà quyện không phút nào rời xa. Con người và thiên nhiên như muốn nhập làm một, tạo thành sự sống của toàn cảnh Côn Sơn.

Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì ? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Ta hãy đọc bốn dòng thơ đầu :

Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.

Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trẽn đá như ngồi chiếu êm.

Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang “ngồi chiếu êm”. Tri tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoa. Tạo vật thiên nhiên bỗng hoá thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hoá thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao ! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng.

Đến bốn dòng thơ sau, niềm say mê hào hứng ấy tiếp tục được đẩy lên cao hơn :

Trong ghềnh thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hoá thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, nhũng bài “thơ nhàn”. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy nhũng bài “thơ nhàn” của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, nhũng quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ.

Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của Bài ca Côn Sơn cho ta thấy một sự giao hoà tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hoà đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi vì tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa : con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến đổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất…

Nhìn tổng hợp lại, hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của ông vua – thi sĩ Trần Nhân Tông và Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi tuy xuất hiện từ xa xưa, lại là tiếng nói và tâm hồn của hai bậc vĩ nhân, nói bằng những từ ngữ cổ xưa, nhưng vẫn rất gần gũi với thế hệ chúng ta ngày nay. Đọc hai bài thơ, chúng ta như được về thăm lại những miền quê thanh bình, những địa danh quen thuộc, được hoà nhập với tâm hồn người xưa trong tình yêu quê hương Tổ quốc thật nhẹ nhàng mà thấm thìa. Đúng là : hai bức tranh thiên nhiên trĩu nặng hai hồn thơ thắm thiết tình quê, tình đời…

Xem lại bình giảng bài Khúc khải hoàn đầu tiên

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận