Xưng hô trong hội thoại sách giáo khoa ngữ văn lớp 9

Đang tải...

Xưng hô trong hội thoại ngữ văn lớp 9

Mục đích của bài học giúp học sinh nắm được:

  • Tiếng Việt có một hệ thống xưng hô rất phong phú, tinh tế, giàu sắc thái biểu cảm.
  • Cách sử dụng từ ngữ xưng hô một cách thích hợp trong giao tiếp.

A. HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU BÀI

Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất phong phú, tinh tế và giàu sắc thái biểu cảm. Người nói cần tuỳ thuộc vào tính chất của tình huống giao tiếp, mối quan hệ vối ngưòi nghe và vị thế gia đình, xã hội, tuổi tác của người đối thoại mà lựa chọn từ ngữ xưng hô cho thích hợp. Ví dụ:

  • Về vị thế xã hội: ông bà, quý vị… (kính thưa, thưa)
  • Về tuổi tác: ông, bà, cha, mẹ, cô, chú, bác, anh, chị…
  • Tính chất của tình huống giao tiếp: trang trọng, thân tình, đối địch… Biết lựa chọn từ ngữ xưng hô một cách thích hợp là thể hiện một nhân cách văn hoá.

1. Một số từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt.

  • Ngôi thứ nhất số ít: tôi, tao, tớ, mình, cháu, em…
  • Ngôi thứ nhất số nhiều: chúng tôi, chúng tớ, chúng mình, chúng

cháu, bọn con… 

  • Ngôi thứ hai số ít: bố, mẹ, ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em, thầy, cô giáo…
  • Ngôi thứ hai số nhiều: các ông, các bà, các cậu, các bác, các chú, các anh, các chị, các thầy, các cô (giáo)…
  • Ngôi thứ ba số ít: anh ấy, chị ấy, nó, ông ấy, bà ấy…
  • Ngôi thứ ba số nhiều: các anh ấy, cầc bà ấy, các cô ấy, chúng nó…

2. Đọc đoạn trích từ tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài và trả lời câu hỏi.

  • Các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích:

+ Đoạn trích (a) có các từ ngữ xưng hô: em – anh (của Dế Choắt nói với Dế Mèn), ta – chú mày (của Dế Mèn nói vối Dế Choắt).

+ Đoạn trích (b) có các từ ngữ xưng hô: tôi – anh (của Dế Mèn nói với Dế Choắt và của Dê Choắt nói với Dế Mèn).

  • Phân tích sự thay đổi về cách xưng hô của Dế Mèn và Dê Choắt trong hai đoạn trích (a) và đoạn trích (b):

+ Trong đoạn trích (a), sự xưng hô của hai nhân vật là khác nhau, thể hiện sự bất bình đẳng của một kẻ ở vị thê yếu (Dế Choắt), cảm thấy mình thấp hèn, muôn nhờ vả người khác ở vị thế mạnh, kiêu căng và hông hách (Dế Mèn).

+ Trong đoạn trích (b), sự xưng hô của hai nhân vật khác hẳn đoạn trích (a), đó là sự xưng hô bình đẳng. sở dĩ có sự thay đổi về cách xưng hô đó là vì các tình huống giao tiếp thay đổi, vị thê giao tiếp của các nhân vật trong đoạn trích (b) không giống ở đoạn trích (a) nữa. Dế Choắt lúc này đã nói chuyện với Dế Mèn như là một người bạn, với những lòi trăng trối, dặn dò chứ không là đàn em, cần nhờ vả và nương tựa vào Dế Mèn.

Xem thêm Chuyện người con gái Nam Xương Ngữ

Văn lớp 9 tại đây.

B. HƯỚNG DẨN LUYỆN TẬP

1. Trong thư mời của một nữ học viên người châu Âu gửi cho một vị giáo sư Việt Nam: Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự, đã có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ xưng hô: chúng ta và chúng tôi. Chúng ta là đại từ xưng hô chỉ “ngôi gộp” (tức chỉ một nhóm ít nhất gồm hai người, trong đó có cả người nói và người nghe), còn chúng tôi là đại từ xưng hô chỉ “ngôi trừ” (tức chỉ một nhóm ít nhất hai ngưòi, trong đó có người nói nhưng không gồm có người nghe).

Sở dĩ có sự nhầm lẫn này là vì có thể người nữ học viên đã dịch từ xưng hô we trong tiếng Anh sang tiếng Việt. Khi dịch như vậy, có thể dịch là chúng tôi hoặc chúng ta tuỳ thuộc vào tình huống.

Có thể sửa lại như sau: Ngày mai, chúng em (chúng tôi) làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự!

2. Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng là chúng tôi chứ không xưng là tôi vì như vậy sẽ làm tăng thêm tính khách quan cho văn bản khoa học. Đồng thời cũng thể hiện sự khiêm tốn của tác giả: vấn đề khoa học được nói đến là sản phẩm lao động, sáng tạo của nhiều người chứ không phải của riêng ngưòi viết.

3. Trong đoạn trích Thánh Gióng, cậu bé gọi mẹ theo cách gọi thông thường (mẹ – con), nhưng nói với sứ giả thì cách xưng hô lại thay đổi (ta – ông). Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa trẻ khác thường, đồng thời cũng cho thấy sự đảm bảo của Thánh Gióng về lòi nói của mình.

4. Bài tập này yêu cầu các em phân tích cách xưng hô và thái độ của ngươi nói trong đoạn trích ở SGK, trang 40.

Vị tướng (trong đoạn trích) là một nhân vật nổi tiếng, nhưng khi gặp lại người thầy đã dạy mình vẫn gọi thầy, xưng em. Khi người thầy giáo già gọi ông là ngài, ông vẫn không thay đổi cách xưng hô đó.

Cách xưng hô như vậy thể hiện thái độ kính trọng và lòng biết ơn của vị tướng đôi với người thầy của mình. Thái độ này cũng thể hiện đúng tinh thần “Tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta.

5. Bài tập này yêu cầu các em đọc đoạn trích dẫn trong SGK,

trang 41 – 42 và trả lời câu hỏi.

Trong đoạn trích, khi nói với nhân dân, Bác đã xưng là tôi và gọi nhân dân là đồng bào. Cách xưng hô như vậy tạo nên sự gần gũi, thân thiết giữa người đứng đầu nhà nước với toàn thể nhân dân. Đây chính là điểm khác biệt trong cách xưng hô so với thời kì trước năm 1945 (người đứng đầu nhà nước thường xưng với dân chúng là trẫm), và tạo ra bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.

6. Bài tập này yêu cầu các em đọc đoạn trích dẫn trong SGK, trang 41 – 42 và trả lời câu hỏi;

Cách xưng hô của mỗi nhân vật trong đoạn trích Tắt đèn thể hiện rõ vị thế xã hội, thái độ và tính cách của từng nhân vật.

  • Cai lệ xưng ông và gọi chị Dậu, anh Dậu là mày, thằng kia thể hiện sự hống hách, trịch thượng, luôn ra oai, tỏ ra là một kẻ bề trên.

Chị Dậu ban đầu thì nhún nhường, nhịn nhục, hạ mình (xưng nhà cháu và gọi cai lệ là ông), nhưng sau đó thay đổi hoàn toàn cách xưng hô (tôi – ông, bà – mày). Sự thay cách xưng hô của chị Dậu thế hiện sự thay đổi về hành vi ứng xử của nhân vật, thể hiện sự phản kháng mãnh liệt của con người khi bị dồn đến bước đường cùng.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận