Văn bản thuyết minh – Tập làm văn 8

Đang tải...

Văn bản thuyết minh 

I – ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU CỦA VĂN BẢN THUYẾT MINH

Trong cuộc sống, con người luôn luôn có nhu cầu tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên và sự vật trong xã hội. Một sự vật, một phong cảnh, một con người, một buổi biểu diễn nghệ thuật, một bài thơ, một cuốn sách,… đều khơi gợi ở người tiếp xúc những mong muốn tìm hiểu bẳn chất, đặc điểm, nguyên nhân, sự hình thành… Khi chúng ta đáp ứng những nhu cầu đó, tức là phải tiến hành trình bày, giới thiệu, giải thích. Chúng ta đã sử dụng văn bẳn thuyết minh.

Những bản hướng dẫn cấu tạo, tính năng, cách dùng và bảo quản một dụng cụ nào đó (máy bơm, quạt điện, ti vi, phích, tủ lạnh,…) ; những hướng dẫn cách chế biến một món ăn theo kiểu Việt Nam, Pháp, Trung Quốc, Nga,… ; những hướng dẫn cách làm một đồ chơi cho các cháu thiếu nhi ; hướng dẫn tham quan du lịch đối với một thắng cảnh ; bản trình bày cách làm thí nghiệm, giải thích tiểu sử nhà văn, trình bày về đặc điểm thể loại văn học… đều là văn bản thuyết minh.

Văn bản thuyết minh khác văn bẳn tự sự ở chỗ nó không kể sự việc và diễn biến ; cũng khác với miêu tả ở chỗ nó không tả tỉ mỉ, chi tiết theo chủ quan của người miêu tả (không nhằm mục đích làm cho người đọc cảm thấy mà chủ yếu là làm cho họ hiểu được) ; khác với văn bản biểu cảm vì nó cố gắng trình bày một cách khách quan, không bộc lộ tình cảm riêng của người viết ; khác với văn bản nghị luận vì nó trình bày nguyên lí, quy luật, cách thức… chứ không trình bày luận điểm, lí lẽ ; văn bẳn thuyết minh cũng khác với văn bản hành chính – công vụ ở chỗ nó không giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, mà hướng tới việc làm cho người ta hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng.

Văn bản thuyết minh cung cấp tri thức khách quan về sự vật, hiện tượng, giúp người đọc, người nghe hiểu được chúng một cách đúng đắn, đầy đủ. Cung cấp tri thức, văn bản thuyết minh đặt yêu cầu làm cho người ta hiểu biết về sự vật, hiện tượng lên hàng đầu, yếu tố cảm nhận hay thưởng thức được đặt xuống hàng thứ yếu. Ngôn ngữ trong văn bẳn thuyết minh yêu cầu chính xác, chặt chẽ, tường minh. Nó không đa nghĩa mà càng đơn nghĩa càng tốt. Tuy nhiên, không loại trừ việc thuyết minh hấp dẫn nhờ cách đặt vấn đề, cách nêu tình huống độc đáo và một số biện pháp nghệ thuật khác.

II – CÁCH LÀM BÀI VĂN THUYẾT MINH

1. Tri thức để làm bài văn thuyết minh

Bài văn thuyết minh là bài cung cấp tri thức cho người đọc (người nghe) để họ có thể hiểu, nắm được một hiện tượng, sự vật nào đó. Vì thế muốn thuyết minh được mạch lạc, rõ ràng, người viết phải có vốn tri thức nhất định về điều mình viết.

Muốn có tri thức, người viết phải trực tiếp tìm hiểu sự vật, quan sát, ghi chép, hỏi những người am hiểu,… Đó là cách tích luỹ kiến thức trực tiếp. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề cần thuyết minh đều yêu cầu cần phải đi thực tế và cũng khó mà đi thực tế. Bởi vậy, tri thức cũng có thể tích luỹ một cách gián tiếp thông qua sách vở, thông qua mạng in-tơ-nét,… Cũng có khi phải sử dụng kết hợp cả hai nguồn tri thức với nhau.

2. Quy trình làm bài văn thuyết minh

Bài văn thuyết minh cũng được làm theo quy trình chung của một bài tập làm văn, gồm 4 bước : tìm hiểu đề và tìm ý, lập dàn ý, viết bài và sửa bài. Muốn viết được bài văn thuyết minh thành công thì phải tìm hiểu đề và tìm được các ý cho đề bài đó. Sau khi tìm được ý, phải chọn phương pháp thuyết minh cho phù hợp. Sau đó là lập dàn bài và viết bài. Trong khi viết có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn bài hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là sửa lại bài viết, nhất là sửa các lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp.

3. Các phương pháp thuyết minh

Đối với bài văn thuyết minh về sự vật, hiện tượng, có thể sử dụng những phương pháp thuyết minh sau đây :

a) Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích

Đây là phương pháp thuyết mịnh khá phổ biến. Người thuyết minh sẽ xác định đối tượng thuộc loại hiện tượng, sự vật gì, đặc điểm của nó là thế nào. Chẳng hạn, nếu văn bản trữ tình chú ý đến vẻ đẹp của Huế, như trong câu ca dao sau đây :

Đường vô xứ Huế quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.

Ai vô xứ Huế thì vô.

thì văn bản thuyết minh chú ý đến việc nêu vị trí, vai trò của Huế :

Huế là cố đô của nước ta, là một trung tâm văn hoá, nghệ thuật của miền Trung và cả nước Khi nêu định nghĩa hay giải thích, người viết cần chú ý đến giới hạn chính xác. Không định nghĩa quá hẹp hay quá rộng sự vật khiến cho người khác khó hình dung và khó hiểu.

b) Phương pháp liệt kê

Đây là một cách để người viết trình bày những tri thức liên quan đến sự vật hay hiện tượng được thuyết minh. Chẳng hạn, thuyết minh về cây dừa, tác giả viết:

Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người : thôn cây làm máng, lá làm tranh, cọng lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa làm chõ đồ xôi, nước dừa để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm,…

Như vậy, tác giả đã liệt kê về sự cống hiến của cây dừa. Trong khi nói về nước dừa, tác giả lại liệt kê những ích dụng của nó : để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm.

Nguyễn Trọng Tạo khi viết về cây chuối cũng sử dụng phương pháp liệt kê :

Chuối xanh nấu với các loại thực phẩm có vị tanh như cá, ốc, lươn, chạch có sức khử tanh rất tốt, nó không chỉ làm cho thực phẩm ngon hơn mà chính nó cũng có cái ngon bổ riêng không thai; thế dược. Người ta có thể chế biến nhiều món ăn từ quả chuối như chuối ép, mứt chuối, kẹo chuối, bánh chuối,… (Căy chuối Việt Nam).

c) Phương pháp nêu ví dụ

Để thuyết minh, người viết có thể nêu ra một ví dụ có tính chất tiêu biểu. Ví dụ càng độc đáo, càng chính xác và được đưa ra đúng lúc, đúng chỗ thì sức thuyết phục càng cao. Nói về khả năng gây bệnh ung thư của thuốc lá, tác giả Nguyễn Khắc Viện nêu ví dụ :

Thấm vào các tế bào, chất hắc ín lại thường gây ra ung thư. Ta đến bệnh viện K sẽ thấy rõ : Bác sĩ Viện trưởng cho biết trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá. (Ôn dịch, thuốc lá)

d) Phương pháp dùng số liệu (con số)

Thật ra, nêu các con số cũng là một cách nêu ví dụ. Nhưng ở đây nhấn mạnh đến ý nghĩa của con số. Các con số thống kê tự bản thân nó đã có ý nghĩa lớn, gây ấn tượng mạnh mà không cần phải thuyết minh thêm. Trong bài Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, G. Mác-két sử dụng việc nêu số liệu rất ấn tượng :

Một ví dụ trong lĩnh vực tiếp tế thực phẩm : Theo tính toán của FAO, năm 1985, người tạ thấy trên thế giới có gần 575 triệu người thiếu dinh dưỡng.

Số lượng ca-lo trung bình cần thiết cho những người đó chỉ tốn kém không bằng 149 tên lửa MX… Chỉ cần 27 tên lửa MX là đủ trả tiền nông cụ cẩn thiết cho các nước nghẻo để họ có được thực phẩm trong bốn năm tới.

(Ngữ văn 9, tập một)

e) Phương pháp so sánh

So sánh là một biện pháp nhằm làm cho người đọc, người nghe hình dung rõ sự vật được nói tới. So sánh còn là một trong ba thể tiêu biểu để triển khai nội dung của một bài ca dao : phú, tỉ (so sánh) và hứng. Miêu tả vẻ đẹp của cô gái, ca dao viết :

Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em sắc như là dao cau.

Ngà làm cho ta cảm nhận được màu trắng cổ tay, dao cau cho ta cảm nhận được độ sắc của cặp mắt. Nhờ so sánh mà đối tượng được hình dung rất cụ thể.

Viết về thành phố Sài Gòn ba trăm năm tuổi, muốn nhấn mạnh Sài Gòn trẻ, Minh Hương so sánh :

Sài Gòn vẫn trẻ […]. Ba trăm năm so uới năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà, trên đài hay da, đổi thịt… (Ngữ văn 7, tập một)

So ba trăm năm với năm ngàn năm, so Sài Gòn với cây tơ đương độ nõn nà, người đọc thấy ngay là Sài Gòn vẫn trẻ.

g) Phương pháp phân loại, phân tích

Thuyết minh là văn bản đùng cho nhiều loại đối tượng khác nhau. Có khi là một món ăn, có khi là một đồ dùng, có khi là một danh lam thắng cảnh, có khi là một loài động vật, thực vật. Chính điều này đã đòi hỏi phải phân loại để chọn các phương pháp và cách trình bày phù hợp. Thêm nữa, ngay trong bản thân đối tượng thuyết minh, cũng có loại phức tạp, nhiều bộ phận, nhiều mặt. Vì thế, phải có sự phân loại, phân tách ra các bộ phận nhỏ hơn để thuyết minh. Ví dụ về một món ăn, người ta thường thuyết minh các phần : Nguyên liệu và dụng cụ chế biến ; Cách chế biến ; Yêu cầu thành phẩm ; Cách ăn món đó như thế nào là ngon nhất.

Như vậy, có nhiều phương pháp thuyết minh. Vấn đề đặt ra cho người viết là biết xác định đối tượng, sử dụng phương pháp kết hợp như thế nào để làm rõ đối tượng, làm cho người đọc, người nghe hiểu được đối tượng mà người viết trình bày.

Xem thêm 

Ghi lại cảnh Lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo

Việc làm tốt khiến bố mẹ rất vui lòng

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận