Tổng kết phần tập làm văn – Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 tập 2

Đang tải...

Tổng kết phần tập làm văn

Mục đích của bài tổng kết là giúp học sinh:

  • Nắm được các kiểu văn bản đã học từ lớp 6 đến lớp 9, sự khác nhau và khả năng vận dụng kết hợp của chúng trong thực tế.
  • Phân biệt kiểu văn bản và thể loại văn học, hình thức thể hiện văn bản cụ thể.
  • Biết trau dồi tiếng Việt để đọc – hiểu văn bản, nâng cao năng lực viết và ngược lại, tập làm văn để nâng cao năng lực tiếng Việt.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

I. Các kiểu văn bản đã học trong chương trình Ngữ văn THCS

1. Sự khác nhau giữa các kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận, điều hành (hành chính – công vụ).

  • Văn bản tự sự trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến kết cục, biểu lộ ý nghĩa nhằm biểu hiện con người, quy luật đời sống, bày tỏ tình cảm, thái độ.
  • Văn bản miêu tả lại tái hiện các tính chất, thuộc tính sự vật, hiện tượng làm cho chúng biểu hiện nhằm giúp cho con người cảm nhận và hiểu được chúng.
  • Còn văn bản thuyết minh lại trình bày thuộc tính, cấu tậo, nguyên nhân, giúp người đọc có tri thức khách quán và có thái độ đúng đắn đối với chúng.
  • Văn bản biểu cảm bày tỏ tình cảm, cảm xúc của con người đối với con người, thiên nhiên, xã hội, sự vật nhằm bày tỏ tính chất và khơi gợi sự đồng cảm.
  • Văn bản nghị luận trình bày tư tưỏng, quan điểm đối với tự nhiên, xã hội, con người và tác phẩm văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập luận nhằm thuyết phục mọi người tin theo cái đúng, cái tốt, từ bỏ cái sai, cái xấu.
  • Văn bản điều hành (hành chính – công vụ) trình bày theo mẫu chung và chịu trách nhiệm pháp lí về các ý kiến, nguyện vọng của cá nhân, tập thể đối với cơ quan quản lí hay bày tỏ yêu cầu, quyêt định của người có thẩm quyền đối vởi người thực thi, hoặc thoả thuận giữa công dân với nhau về lợi ích và nghĩa vụ nhằm bảo đảm các quan hệ bình thường giữa người và người theo quy định và pháp luật.

2. Các kiểu văn bản trên không thể thay thế được cho nhau bởi chúng có các phương thức và thao tác biểu đạt khác nhau với các mục đích biểu đạt khác nhau.

3. Các phương thức biểu đạt trên thường được kết hợp với nhau trong một văn bản cụ thể để làm sáng tỏ đặc điểm của đôi tượng được nói tới trong mỗi loại văn bản.

Các văn bản như: Cố hương của Lỗ Tấn, Lão Hạc của Nam Cao, Làng của Kim Lân… đều sử dụng phối hợp nhiều phương thức biểu đạt.

Ví dụ: Trong đoạn văn dưới đây trích trong văn bản Lão Hạc của Nam Cao, tác giả đã kết hợp các phương thức tự sự, nghị luận, biểu cảm. Việc sử dụng phối hợp các phương thức biểu đạt trên giúp tác giả tái hiện sinh động cảnh tượng xảy ra đồng thời bộc lộ sâu sắc tình cảm, suy nghĩ của mình.

Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai củng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi!

  • Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ. Nhà mình có sung sướng gì mà giúp lão? chính con mình cũng đói…

Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ôi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không baọ giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chăn có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần…

Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ… Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa ‘lão Hạc bởi vì lão lương thiện qũá. Hắn bĩu môi và bảo:

  • Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tầm ngầm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một tí bả chó…

Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:

  • Lão bảo con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão củng có thể làm liều như ai hết. .. Một con người như thế ấy!… Một người đã khóc khi trót lừa một con chó!… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ củng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…

(Nam Cao,- Lão Hạc)

4. Kiểu văn bản và hình thức thể hiện, thể loại tác phẩm văn học có những điểm giống nhau và khác nhau là:

Kiểu văn bản và thể loại văn học khác nhau ở chỗ kiểu văn bản là cơ sở của các thể loại văn họe. Cùng một kiểu văn bản như văn bản tự sự có thể được dùng trong bản tin (thuộc thể loại báo chí), trong văn bản hành chính, trong văn học,…

  • Các thể loại văn học đã học là: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Tự sự có truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, truyện dân gian… Tự sự chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt tự sự và miêu tả.

+ Trữ tình có thơ, trường ca, thơ ca dân gian, tuỳ bút… trữ tình chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm.

+ Kịch có bi kịch, hài kịch, chính kịch (xét về mặt nội dung); kịch hát, kịch thơ, kịch nói (xét theo phương thức tổ chức và diễn xuất của ngôn ngữ). Kịch sử dụng ngôn ngữ trực tiếp (đối thoại, độc thoại) và cử chỉ, hành động của nhân vật.

  • Tác phẩm văn học như thơ, truyện, kịch có sử dụng các yếu tố nghị luận.

Ví dụ: Trong truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, tác giả không chỉ kể lại diễn biến cuộc gặp gỡ giữa Va-ren và Phan Bội Châu mà còn đưa vào phần kết và phần tái bút nhiều yếu tố nghị luận có tính chất bình luận về thái độ của Phan Bội Châu đối vói Va-ren.

Xem thêm Tôi và chúng ta – Ngữ văn lớp 9 tại đây.

5. Kiểu văn bản tự sự và thể loại văn học tự sự khác nhau là:

  • Kiểu văn bản tự sự không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác như trong văn bản báo chí, đơn từ, khoa học, bản tin…
  • Còn thể loại văn học tự sự là một thể loại nhằm phân biệt vối các thể loại trữ tình và kịch. Tác phẩm tự sự là loại tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống “thông qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm trở thành một câu chuyện về ai đó và về cái gì đó” (Từ điển Thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004).

Tính nghệ thuật trong tác phẩm văn học tự sự thể hiện ở nhiều điểm:

  • Dùng lời kể và lời miêu tả để thông báo thòi gian, địa điểm, gọi ra đặc điểm nhân vật, sự việc xảy ra, phân tích tâm trạng, tình huống nhằm làm hiện lên bức tranh đời sống một cách khách quan.
  • Có cốt truyện, có các biến cố, có quan hệ nhân quả với nhau, tác động vào nhau, đẩy tới một đình cao buộc phải có một kết cục.
  • Tác phẩm tự sự có khả năng thể hiện nhân vật một cách toàn diện nhất so với các thể loại trữ tình và kịch.
  • Tác phẩm tự sự rất giàu các loại hình và hình thức ngôn ngữ (ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật sinh động, đa dạng).

6. Kiểu văn bản biểu cảm và thể loại văn học trữ tình giông và khác nhau là:

  • Giống nhau: Thể loại văn học trữ tình chủ yếu dùng phương thức biểu đạt biểu cảm. Như vậy, kiểu văn bản biểu cảm là cơ sở của thê loại văn học trữ tình.
  • Khác nhau:

+ Kiểu văn bản biểu cảm không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác như trong điện mừng, lời thăm hỏi, chia buồn, văn tế, điếu văn…

+ Còn thể loại văn học trữ tình là một thể loại nhằm phân biệt vối các thể loại tự sự và kịch.

7. Tác phẩm nghị luận cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự. Các yếu tố này giúp cho việc trình bày luận điểm, luận cứ trong bài văn được làm rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn. Do đó, bài viết có sức thuyết phục mạnh..„mẽ hơn.

+ Việc đưa các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự vào trong bài văn nghị luận phải xuất phát từ nhu cầu nghị luận. Chúng phải phù hợp vói luận điểm, luận cứ, phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm, luận cứ và không phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn.

II. Các kiểu vản bản trọng tâm

1. Văn bản thuyết minh:

a. Văn bản thuyết minh có đích biểu đạt: Đem lại cho con người những tri thức khách quan, chính xác về sự vật, hiện tượng để có thái độ, hành động đúng đắn.

b. Muốn làm được văn bản thuyết minh, ngươi viết phải có hiểu biết về sự vật, hiện tượng được thuyết minh. Điều này có được do sự quan sát, thăm thú, tra cứu sách vở hay hỏi han những người hiểu biết.

c. Các phương pháp thường dùng trong văn bản thuyết minh: phương phập định nghĩa, giải thích; so sánh; nêu ví dụ; phân tích; phân loại; liệt kê; nêu số liệu,…

d. Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản thuyết minh: có tính chính xác, cô đọng, chặt chẽ và sinh động.

2. Văn bản tự sự:

a. Văn bản tự sự có đích biểu đạt là: biểu hiện con người, quy luật đời sống và bày tỏ thái độ.

b. Các yếu tố tạo thành văn bản tự sự là: chi tiết, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ trần thuật,…

c. Văn bản tự sự thường kết hợp với các yếu tố miêu tả, nghị luận, biểu cảm vì nếu văn bản chỉ có yếu tố tự sự thì sẽ làm cho chuyện kể khô cứng, không có hồn.

Tác dụng của các yếu tố miêu tả, nghị luận, biểu cảm trong văn bản tự sự là: Yếu tố miêu tả làm cho sự việc được kể sinh động và như thật. Yếu tố biểu cảm thể hiện được thái độ của người nói đối với sự việc được kể. Còn yếu tố nghị luận lại nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm nào đó.

d. Ngôn ngữ trong văn bản tự sự có đặc điểm là: giản dị, gần gũi với đời sống hằng ngày.

3. Văn bản nghị luận

a. Văn bản nghị luận có đích biểu đạt: nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm nào đó.

b. Văn bản nghị luận do các yếu tố sau tạo thành: luận điểm, luận cứ, lập luận.

  • Luận điểm: ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn, được nêu ra dưới hình thức phủ định hay khẳng định.
  • Luận cứ: các lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm.
  • Lập luận: cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm.

c. Yêu cầu đối với luận điểm, luận cứ và lập luận.

  • Luận điểm: phải xác đáng, chân thực, đáp ứng được nhu cầu của thực tế.
  • Luận cứ: phải chân thực, đúng đắn và tiêu biểu
  • Lập luận: phải chặt chẽ, hợp lí.

d. Dàn bài chung của một bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống hoặc một vấn đề tư tưởng, đạo lí.

  • Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
  • Thân bài:

+ Giải thích, chứng minh nội dung vấn đề tư tưởng, đạo lí.

+ Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trong bôi cảnh của cuộc sống riêng, chung.

  • Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mối, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động.

e. Dàn bài chung của bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) hoặc về một bài thơ, đoạn thơ.

  • Mỏ bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của mình (Nếu phân tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó).
  • Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận