Phân tích phần đầu bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu – Tài liệu ôn thi THPTQG

Đang tải...

Tài liệu ôn thi THPTQG Ngữ Văn

Bộ tài liệu luyện thi Ngữ Văn được biên soạn theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo; dành cho học sinh THPT ôn luyện, chuẩn bị cho các kỳ thi Quốc Gia. HOC360.NET xin giới thiệu đến bạn đọc bộ tài liệu ôn tập  bao gồm các phần về các kiến thức:

+ Trọng tâm kiến thức tác giả, tác phẩm cần ghi nhớ

+ Các đề bài ôn luyện các dạng văn nghị luận xã hội, văn học.

Hy vọng bộ tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn học sinh lớp 12 ôn tập tốt và đạt kết quả thi cao!

Đề bài chi tiết:

Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

 

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

……

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu… ”

 

—–~~~—–

I. Yêu cầu của đề: 

  • Nội dung:

+ Trước khi phân tích đoạn thơ, học sinh cần nắm được nội dung khái quát toàn đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ. Nhà thơ đã tái hiện được một thời kì cách mạng và kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước; qua đó thấy rõ từ tình cảm thuỷ chung truyền thông của dân tộc, Tố Hữu đã nâng lên thành tình cảm mới của thời đại, đó là ân tình cách mạng – cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.

+ Phân tích đoạn thơ làm nổi bật lên tinh thần ấy, khi phân tích cần tách khổ và hình thành luận điểm theo cấu tứ của đoạn thơ: lời người đi – lời người ở qua cách xưng hô mình – ta tưởng rất riêng của tình yêu đôi lứa nhưng lại là tình cảm lớn của những người kháng chiến. Cụ thể như sau:

  • Phân tích cấu tứ đoạn thơ để thấy được sắc thái tâm trạng của cái tôi trữ tình – nhà thơ và những người tham gia kháng chiến.
  • Tình cảm bâng khuâng, lưu luyến của người ở – người đi trong buổi chia tay.
  • Lòi hỏi của người ở lại với người ra đi có nhớ về một chiến khu gian khó mà thuỷ chung?
  • Những đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ.

-Phương pháp lập luận: Phân tích kết hợp với chứng minh, bình giảng.                  

  • Tư liệu: Chủ yếu dẫn trong đoạn thơ.                                         

II. Lập dàn ý

Mở bài

  • Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp, đây chính là căn cứ địa vững chắc của Trung ương Đảng và Chính phủ trong suốt 15 năm thuở còn kháng Nhật. Nơi đây đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng, Chính phủ, cho bộ đội những ngày kháng chiến vô cùng gian khó. Và cũng chính nơi đây đã lập nên chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
  • Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ Việt Bắc trở về xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ về Hà Nội. Liệu những người chiến thắng có giữ tấm lòng thuỷ chung ân nghĩa với mảnh đất đã từng cưu mang, gắn bó hay không? Đấy là vấn đề tư tưởng lớn đặt ra cho các cán bộ và chiến sĩ. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để đáp lại nỗi niềm ấy. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thi phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì chống Pháp; là khúc tình ca, anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến, về con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước; là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam.
  • Một trong những đoạn gây xúc động lòng người là phần đầu của bài thơ, tái hiện một giai đoạn lịch sử gian khổ vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng của những người kháng chiến.

Thân bài

*Phân tích cấu tứ của đoạn thơ

  • Đoạn thơ nằm trong cấu tứ chung của cả bài thơ, đó là tâm trạng đầy xúc động bâng khuâng của người đi kẻ ở, cả hai đã từng sống và gắn bó suốt mười lăm năm, có biết bao kỉ niệm ân tình ân nghĩa, sẻ chia đắng cay ngọt bùi trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ.
  • Tố Hữu đã rất khéo léo thể hiện ân tình ân nghĩa ấy dưới hình thức đối đáp của hai nhân vật trữ tình “mình – ta” trong ca dao truyền thống, tưởng như rất riêng của tình yêu đôi lứa nhưng lại hoá thành một vấn đề lớn trong mối quan hệ ân tình của đồng chí, đồng bào, của tình yêu quê hương, đất nước. Lời đối đáp giao hoà đồng vọng trong tâm hồn mỗi người vì cả hai đều là người kháng chiến.
  • Nhà thơ sáng tạo hai đại từ “mình – ta” là thủ pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa góp phần vào sự phân đôi và thống nhất của chủ thể trữ tình. Mình là ta; ta là mình; là những người kháng chiến, là đồng bào Việt Bắc, là nhà thơ. Tất cả thâm nhập, chuyển hoá vào lời độc thoại, đối thoại, diễn tả chung tâm trạng, tâm tư, tình cảm của nhà thơ và của những người tham gia kháng chiến. Họ đã sống gắn bó, tình nghĩa, sướng khổ có nhau; cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung cảm xúc buổi phân li; cùng xúc động, băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới; giữa phần đi và phần ở trong mỗi con người.

*Mở đầu đoạn thơ là tình cảm bâng khuâng, lưu luyến của người ở người đi trong buổi chia tay.

  • Lời người ở lại hỏi người ra đi:
 

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

 

Người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, dường như gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó suốt mười lăm năm biết bao gian khó, hi sinh mà thiết tha mặn nồng… nay trở về xuôi liệu có nhớ không? Các điệp ngữ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không’’ với giọng điệu lưu luyến, da diết khôn nguôi về một thời cách mạng, nhắc nhớ người ra đi đạo lí “uống nước nhớ nguồn”...

  • Tế nhị và sâu sắc biết bao, người ra đi chỉ biết cầm tay nghẹn ngào khó nói:

 

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

 

Nghe tiếng ai tha thiết mà lòng người đi xiết bao xao xuyến bâng khuâng, bồn chồn chân bước. Làm sao có thể ra đi mà quên cội nguồn “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng!” Người ra đi không nói ra thành lời biết nói gì hôm nay”. Cái cầm tay không lời mà chất chứa bao nỗi niềm của người đi. Nhịp thơ lục bát nhịp nhàng, diễn tả thần tình một thoáng ngập ngừng của tình cảm. Chút ngập ngừng tạo ra một phút lặng cho chuỗi câu hỏi tiếp theo được vang lên dồn dập, tha thiết hơn.

*Lời người ở hỏi người đi có nhớ về một chiến khu gian khó mà thuỷ chung?

 

“Minh đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

 

 

  • Mười hai dòng nhắc nhớ những ngày tháng gian khó ở chiến khu Việt Bắc; mười hai dòng tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ niệm:

+ Mình đi có nhớ những ngày: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”, đó là đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc trong những ngày khắc nghiệt, gợi ra những gian nan, vất vả của những ngày kháng chiến.

+ Mình về có nhớ con người Việt Bắc nghèo nhưng thuỷ chung, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ cùng kháng chiến: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”?

+ Mình về có nhớ mảnh đất chiến khu từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh, nơi ấy là căn cứ địa vững chắc cho kháng chiến với những địa danh Tân Trào, Hồng Thái và những kỉ niệm “mái đình cây đa”?

=> Thiên nhiên, mảnh đất, con người biết bao ân tình ân nghĩa, người đi làm sao có thể quên.

  • Cuối cùng để trả lời cho sự băn khoăn, biết bao lo lắng ấy, người ra đi khẳng định:

 

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu …”

 

+ “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hòa, ta với mình là một, lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi mặn mà, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên! Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” khẳng định sự chung thủy sắt son với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia…

*Những đặc sắc về nghệ thuật: Cái tạo nên chất thơ ở đây chính là nhạc điệu và cách sử dụng từ vựng tiếng Việt của nhà thơ.

  • Các câu lục bát rất chuẩn về luật, vần, cách ngắt nhịp đã làm cho những hoài niệm cùng cảm xúc trở nên ngân nga, réo rắt, trầm bổng, thấm sâu vào hồn người đọc.
  • Các câu tám sử dụng nghệ thuật tiểu đối rất chỉnh làm cho cấu trúc cân xứng, giàu chất nhạc:

 

  • Mưa nguồn suối lũ – những mây cùng mù
  • Miếng cơm chấm muối – mối thù nặng vai
  • Trám bùi để rụng – măng mai để già
 
  • Các câu sáu luân phiên nhau, cứ một câu “mình đi”lại một câu “mình về”. Đi hay về, tất cả đều chỉ cùng một hướng của người về xuôi. Cái hay là nhà thơ đã vận dụng rất khéo léo ngôn ngữ tiếng Việt để tạo ra sự đa nghĩa thú vị đó.

 

  • Mình đi có nhớ những ngày
  • Mình về, có nhớ chiến khu
  • Mình về, rừng núi nhớ ai
  • Mình đi, có nhớ những nhà
  • Mình về, có nhớ núi non
  • Mình đi, mình có nhớ mình
  • Mình đi, mình lại nhớ mình
 

=> Sự bình đôi giữa “đi – về” kết hợp với các điệp từ “có nhớ” tạo ra âm điệu vừa êm ái, vừa réo rắt trong sự tiếc nuối, vừa ân tình thủy chung.

-Trong đoạn thơ, người ở lại có đan xen một câu hỏi nhưng không để hỏi người về xuôi, mà là lời độc thoại để hỏi chính lòng mình :

 

“Mình đi rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

 

“Rừng núi”cách nói ẩn dụ chỉ người Việt Bắc, người Việt Bắc đã lấy những thứ mà rừng núi đã từng nuôi cán bộ, chiến sĩ như măng mai, trám bùi để nhắc nhớ những kỉ niệm về những ngày gian khó, để diễn tả cái nghĩa tình của mình với người ra đi. Người đi rồi trám bùi, măng mai biết giành cho ai, chỉ để rụng, để già mà thôi.

  • Trong đoạn thơ còn có hai câu chứa nhiều từ “mình”:

 

  • Mình đi, mình có nhớ mình
  • Mình đi, mình lại nhớ mình
 

Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân ta, nhưng cũng lại là người khác. Trong xưng hô giữa vợ chồng hay bạn bè thân thiết, đó là sự thể hiện tình cảm gần gũi, gắn bó, yêu thương. Trong văn cảnh này cũng vậy, mình là ta, là người ở lại, là người ra đi vừa thống nhất, vừa biến hóa, đa thanh, đa nghĩa, thú vị mà tinh tế nhường nào!

Kết luận

Đoạn thơ là khúc hát ân tình, ân nghĩa của người ra đi và người ở lại. Là tình cảm thắm thiết sâu nặng của những người kháng chiến dù ở trong niềm vui hiện tại vẫn không quên cội nguồn của thắng lợi. Đó là truyền thống đạo lí đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam. Đoạn thơ mang đậm phong cách trữ tình – chính trị. Nhà thơ nói về vấn đề lớn của dân tộc nhưng được diễn tả qua ngôn ngữ mềm mại, giản dị, chí nghĩa, chí tình, nên thơ, nên nhạc gây ấn tượng sâu đậm trong tâm trí người đọc.

» Xem thêm : Bức tranh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ tại đây.

 

 

 

 

 

 

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận