Hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Ngữ văn 12

Đang tải...

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Lưu Quang Vũ

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh ở Phú Thọ trong một gia đình trí thức.

– Từ 1965 – 1970 (17 – 22 tuổi) vào bộ đội và được biết đến như một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.

– Từ 1970 – 1978 (22 7 30 tuổi) xuất ngũ làm nhiều nghề để mưu sinh.

– Từ 1978 – 1988 (30 – 40 tuổi) làm biên tập viên tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX với những vở kịch đặc sắc như: Lời thề thứ 9, Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da hàng thịt..,

– Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận… Rất nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ được bạn đọc yêu thích: Tiếng Việt, Và anh tồn tại, Bầy ong trong đêm sâu… nhưng kịch là lĩnh vực thành công nhất của ông. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

– Hiện tượng Lưu Quang Vũ là sự thăng hoa của tài năng nghệ sĩ cùng không khí sôi động của xã hội Việt Nam những năm 80 (thế kỷ XX) và tinh thần nhân văn, dân chủ trong đời sống văn học lúc bấy giờ.       

– Năm 2000, Lưu Quang Vũ được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh ra đời

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới công diễn và gây được ấn tượng mạnh đối với công chúng trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân vân sâu sắc.

b. Tóm tắt tác phẩm

Trương Ba, một người làm vườn tốt bụng, khoẻ mạnh, giỏi đánh cờ, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào thể xác hàng thịt vừa mói chết. Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân Trương Ba cũng đau khố vì phải sống xa lạ, giả tạo. Đặc biệt, thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải là của bản thân ông. Trước nguy cơ tha hoá về nhân cách và sự phiền phức phải mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.

c. Vị trí đoạn trích

Văn bản được trích từ cảnh XII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ dằn vặt, và quyết định cuối cùng vô cùng cao thượng của Trương Ba sau mấy tháng hồn trú nhờ vào thể xác hàng thịt và gặp rất nhiều phiền toái…

II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Cuộc đối thoại giữa hổn Trương Ba và xác anh Hàng thịt và hàm ý mà tác giả gửi gắm

a. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt

– Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba ngồi ôm đầu một lúc lâu rồi vụt đứng dậy với những lời độc thoại khẩn thiết:          J

“Không. Không. Tôi không muốn sống như thế này mãi. Tôi chán cái chỗ không phải là của tôi này lắm rồi. Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cải hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái thân xác này dù chỉ một lát!”

=> Hồn Trương Ba đạng ở trong một tâm trạng bức bối, đau khổ vô cùng.

– Trong cuộc đối thoại vói xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi Xác nói những điều mà dù muốn hay không Hồn vẫn phải thừa nhận.

+ Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà Hồn đưa ra để biện bạch: Ta vẫn còn một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…

+ Trong cuộc đối thoại này, Xác thắng thế vì biết những cố gắng để tách khỏi Xác của Hồn là không thể nên tuôn ra những lời thoại dài vói chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi lên giọng dạy đời, chỉ trích châm chọc. Hồn lúc đầu mắng mỏ nhưng sau chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo tiếng than, tiếng kêu vì thấm thìa nghịch cảnh của mình

b. Hàm ý của tác giả

Hảm ý mà tác giả gửi gắm vào cuộc tranh cãi này là không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi, Khi cọn người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội cho thân xác. Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

2. Nguyên nhân khiến cho người thân của Trương Ba và cả chính Trương Ba phải rơi vào bất ổn, đau khổ và thái độ của Trương Ba trước những rắc rối đó

* Hồn Trương Ba và gia đình:

– Nỗi đau khổ và tuyệt vọng của Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với người thân. Người vợ nhất định đòi bỏ đi vì “Ông đâu phải là ông”. Còn cái Gái thì giận dữ vì cái bàn tay giết lợn của ông đã làm gãy chồi non, bàn chân to bè như cái xẻng giẫm nát cây sâm quý mới lượm trong mảnh vườn của ông nội nó… Chị con dâu sâu sắc hơn biết thương cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng nhưng rồi cũng nói chính con cũng không nhận ra thầy nữa.”…       ,                       .                       .

– Nguyên nhân khiến cho người thân của Trương Ba và chính ông rơi vào bất ổn là bởi Trương Ba bây giờ đã thay đổi khi phải sống trong cái xác của hàng thịt. Hình ảnh, thói quen thô lỗ… của anh hàng thịt không sai, không xấu nhưng nó chỉ thích hợp với bản thân một đồ tể thôi, còn vói gia đình Trương Ba và cả chính bản thân Trương Ba thì không thể chấp nhận được vì nó quá xa lạ với họ.

* Nhân vật hồn Trương Ba bây giờ rơi vào cái thế bị mọi người xa lánh, sự tồn tại cửa ông vì thế mà trở nên vô nghĩa, thậm chí nặng nề, bức bồi.

3. Sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa của sự sống

– Quan niệm của Đế Thích: Khuyên Trương Ba chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn: “Dưới đất, trên trời đều thế cả”.

– Quan niệm của Trương Ba: Không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo, muốn được là mình “toàn vẹn”.

– Lời thoại cùa hồn Trương Ba: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…”

– Ý nghĩa:

+ Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội chó thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

+ Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

– Quyết định dứt khoát xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn cùa mình lại nhập vào xác cu TỊ để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra.

– Kết thúc vở kịch, hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực. Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa cùa cuộc sống.

4. Nguyên nhân Truơng Ba từ chối khi Đế Thích định cho hổn Trương Ba nhập vào xác cu Tị

– Khi Trương Ba cương quyết đòi trả xác cho hàng thịt, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị, Trương Ba đã từ chối. Đây là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hồn Trương Ba thử hình dung mình lại nhập vào xác cu Tị và thấy rõ bao nhiêu sự rắc rối vô lí lại tiếp tục xảy ra. Tình thương mẹ con cu Tị cũng là một nguyên nhân khiến ông nhanh chóng quyết định dứt khoát xin Đế Thích gọi hồn cu Tị trở về. Hành động bẻ bó nhang của ông cho thấy ông là con người nhân hậu, có quyết định dứt khoát và tự trọng, hiểu ý nghĩa của cuộc sống.

– Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ mở nút một cách hợp lí bởi nếu chậm thì việc cứu cu Tị sẽ không còn kịp nữa.

5. Cảm nghĩ sau khi đọc đoạn kết

Trương Ba đã trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào những sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những ngừời thân yêu của mình. Cuộc sống lại trở về với quy luật vốn có của nó. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan và truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của sự sống đích thực, của chân, thiện, mỹ.

Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, qua vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ:

– Con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.

– Lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.

Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.

Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng cọn người phải sống giả, không dám vá cũng không được sống là bản thận mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hoá do danh và lợi.

III. LUYỆN TẬP

Giả định Đế Thích cho Trương Ba được quyền Sống (không phải mượn) trong xác hàng thịt hoặc hôn Trương Ba nhập vào xác cu Tị và Trương Ba đồng ý, theo anh (chị), cuộc sống của Trương Ba sau đó sẽ như thế nào? Trình bày ý tưởng về những rắc rối sẽ ‘xảy ra và viết một lớp kịch ngắn về điều đó.

– Nếu nhập vào xác hàng thịt: người nhà hàng thịt và hàng xóm sẽ nhận nhầm người, họ đòi hỏi Trương Ba phải làm những việc của anh hàng thịt. Ngược lại, người nhà Trương Ba sẽ vô cùng thất vọng và thấy xa lạ với cái thân xấc kỳ quặc, thô lỗ của anh hàng thịt.

– Nếu nhập vào xác cu Tị: Trương Ba có những suy nghĩ chín chắn, kì lạ, già dặn trong hình hài một đứa trẻ. Nhưng mặt khác, ông không thể làm được những việc mà ông muốn làm.

IV. MỞ RỘNG KIẾN THỨC

Hồn Trương Ba, da hàng thịt – nơi kết thúc của cổ tích và sự khởi đầu

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một câu chuyện không mấy tiêu biểụ cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên cạnh những Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh… Tuy nhiên, từ góc nhìn tự sự, người ta cụng dễ dàng nhận diện những yếu tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm: Đó là nhân vật, tình huống, diễn biến cốt truyện, phép mầu mang đến may mắn cho con người… Và mặc dù câu chuyện dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho, nhân vật vua cờ Đế Thích vẫn có thế được coi là một kiểu “Bụt”, “Tiên” giáng thế để cứu vớt, bù đắp cho những mất mát, đau thương cho trần giới. Câu chuyện mở đầu bằng một cuộc cờ và kết thúc bằng một “phép tiên” cải tử hoàn sinh – một mơ ước ngàn lần không tựởng của con người. Có thể tóm lược một cách vắn tắt nội dung câu chuyện như sau:

“Ngày xưa, có một ông Trương Ba chơi cờ tướng rất giỏi – “cao tay” đến mức “có một không hai”. Một hôm, đang bên bàn cờ, đối thủ của ông Trương Ba bị dồn vào thế bí bèn thốt lên “Nước cờ này chỉ có tiên cờ là Đế Thích mới có thể gỡ được chứ người trần chỉ có nước hàng thôi”. Vừa dứt lời thì quả nhiên có một ông lão ăn mày xuất hiện xin đi thử một nước cờ gỡ bí… ông Trương Ba vừa tức, vừa sững sờ kinh ngạc vì chỉ trong thoáng chốc, đối thủ của ông không chỉ thoát bí mà còn dồn ống đến chỗ thua bèn cúị xuống sụp lạy ông lão, vừa lạy vừa nói: “Tôi dám chắc cụ là tiên cờ Đế Thích chứ chẳng phải người phàm”. Ông lão ăn mày từ chối, chỉ nói rằng mình là kẻ nghèo hèn nhưng ông Trương Ba không chịu nghe cứ sụp lạy mãi khiến ông già đành phải thú thật: “Đúng tôi là Đế Thích, nghe nhắc đến tên, tôi phải xuống xem anh đánh cờ ra sao và đã thấy anh đúng là tay cờ giỏi”. Nhân đó, ông Đế Thích vói danh nghĩa “cùng làng cờ” báo cho ông Trựơng Ba biết là số ông đã đến ngày tận thế, nhưng lúc nằm xuống, nhớ thắp hương lên mà vái đúng tên Đế Thích thì tiên cờ sẽ giúp để Trương Ba sống lại. Và ông Trương Ba đã nói lại tất cả những điều đó với vợ. Một tháng sau ngày chồng mất, vợ ông Trương Ba trong khi dọn bàn cờ tướng sực nhớ tới lời dặn của chồng bèn thắp hương khấn tên Để Thích và cầu xin để chồng mình được sống lại. Đế Thích dường như bất lực vì ông Trương Ba về với đất đã lâu… Cũng “may” lúc đó, cùng lối xóm ÇÔ ạnh hàng thịt vừa mới mất, Đế Thích bèn nhập hồn ông Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Và thế là ông Trương Ba đang sống lại trong hình hài của anh hàng thịt. Hai bà vợ lời qua tiếng lại, giành giật thậm chí là đánh nhau bỏi vì ai cũng có lý khi nhận người vừa sống lại đúng là chồng mình. Cuối cùng họ dắt nhau đến cửa quan và vợ ông Trương Ba đã thắng kiện bởi vì anh hàng thịt đã nhận bà Trương Ba là vợ, anh hàng thịt không biết cách cầm dao mổ lợn mà lại nói về cờ tướng rất thạo và đặc biệt là còn quen biết cả với tiên cờ Đế Thích. Vợ người hàng thịt đành chịu mất chồng  Rõ ràng là từ “bản gốc” có phần đơn giản này, Lưu Quang Vũ đã không bị lệ thuộc vào nội dung câu chuyện, đã tìm tòi, vừa mở rộng kích thước tự sự, vừa khơi sâu vào giá trị tư tưởng đế tạo nên một vở kịch nổi tiếng mà “hạt cơ bản” là giá trị nhân văn sâu sắc về lẽ tử – sinh.

Khác với văn bản tự sự cổ tích xoay quanh câu chuyện chỉ vẻn vẹn vài nhân vật: ông Trương Ba, vợ ông Trương Ba, tiên Đêd Thích, người bạn cờ, anh hàng thịt, vợ anh hàng thịt và quan toà; “thế giới” nhân vật trong tác phẩm kịch của Lưu Quang Vũ có sự hiện diện của rất nhiều nhân vật khác “châu tuần” chung quanh nhân vật chính: Nam Tào, Bắc Đẩu; anh con trai, chị con dâu, cháu nội ông Trương Ba; Lý trưởng, Trương Tuần, lái lợn 1, lái lợn 2… Chính họ là những phía đối lập của xung đột, can dự, chi phối đẩy cốt truyện kịch lên cao trào và tạo nên bi kịch lạ lùng cho số phận Trương Ba. Tương tự như vậy, các yếu tố không gian, thời gian trong tác phẩm của Lưu Quang Vũ cũng trở nên đa chiều hon. Đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, (chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại) – một hình thức đặc thù của văn bản kịch – đã được vận dụng một cách hiệu quả và sáng tạo trong một tác phẩm được coi là “để đời” của một nhà viết kịch tài năng và thuộc một thể loại kể chuyện bằng ngôn ngữ đối thoại và “tất cả mọi vấn đề xung quanh hình tượng” đều nằm trong lòi ăn tiếng nói của nhân vật.

Thay vì điểm nhìn của tự sự cổ tích vói lời mở đầu quen thuộc “Ngày xửa ngày xưa có một người tên là…”, vở kịch của Lưu Quang Vũ mở màn bằng “không gian tiên giới”. khung cảnh trên thiên đình – với sự xuất hiện của các quan nhà tròi Bắc Đẩu, Nam Tào và dĩ nhiên là có cả ĐếThích. Do cung cách làm việc tắc trách, luộm thuộm của nhũng đấng nắm “quyền sinh quyền sát” trong tay, và cũng muốn xong việc để kịp dự lễ khai tiệc bên đình Thái Thượng, sau cái “tặc lưỡi” và dưới ngòi bút oanh nghiệt của Nam Tào, ông Trương Ba hiền hậu, tử tế, tốt bụng còn đang rất khoẻ mạnh, mặc dầu chưa “tận số” (khác với cổ tích) đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, lừa thầy phản bạn, dối trá tham tàn… “Xen” kịch ngắn giàu tính thời sự này của Lưu Quang Vũ gợi nhớ về một thời chưa xa “sinh mệnh” của con người chất ngất nhiều nôi oan khuất bời trên đầu họ là những thế lực, thậm chí là siêu thế lực “cho ai sống mới được sống, bắt ai chết là phải chết…” (trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt).

Sau cảnh hạ giới với sự ra đi đột ngột của ông Trương .Ba và nỗi bàng hoàng thương tiếc của nhũng nguời ruột thịt, xóm giềng… lần thứ hai, không gian thiên đinh lại hiện hữu để người xem có dịp chúng kiến một sự “sửa sai” ngoài mọi tường tượng: ông Trương Ba được sống lại bằng thân xác của anh hàng thịt nhờ cái tâm và phép màu của Đế Thích. Mô hình không gian này không xuất hiện trong câu chuyện cổ tích (chỉ cỏ những khung cảnh quen thuộc ở hạ giới) nhưng đối với Lưu Quang Vũ, sự trở lại không gian này đã tạo một bước ngoặt quan trọng để tạo lực đẩy kịch tính cho cốt truyện. Dòng tự sự dân gian rõ ràng đã lấy việc ông Trương Ba được sống lại trong “lốt” thân thể anh hàng thịt làm sự kiện chính và là “điểm nhấn” trung tâm mang lại tính chất hoang đựờng cho câu chuyện cổ tích. Chính vì vậy, những diễn biến tiếp theo cửa câu chuyện như cuộc đấu khẩu, xô xát giành chồng giữa hai người đàn bà và việc quan xử cho bà vợ ông Trương Ba thắng kiện chỉ là những “tình tiết phụ” nhằm bổ sung và hoàn thiện câu chuyện theo hướng kết thúc có hậu (ít ra là từ phía nhân vật chính). Song, qua so sánh, đối chiếu hai văn bản (kể cả việc vận dụng lý thuyết liên văn bản), chúng ta có thể khắng định rằng: xung đột kịch của Lưu Quang Vũ chỉ thực sự bắt đầu và thăng hoa khi câu chuyện cổ tích đã kết thúc. Có nghĩa là, bi kịch của nhân vật Trương Ba không đơn giản ở việc bị chết oan mà đau đón, vật vã hơn bội phần lại là cái sự được sống lại, được hưởng phúc ân chưa từng có ở chốn thế gian này.

Đời sống dị thường của ông Trương Ba sau phép mầu “cải tử hoàn sinh’” đã làm nẩy sinh nhiều mâu thuẫn cả “ngoại sinh” lân “nội sinh”.Người láng giêng thân thiện, một bạn cờ rất phục tài ông Trương Ba giờ không thể hiểu nổi vì sao “lối đánh cờ của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào cờ của bác vẫn như xưa, nhưng sau thì… chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh, thâm sâu ngày ‘trước. Cách tiên, cách thủ củạ bác bây giờ. Vụn vặt, tủn mủn, thô phũ. Mà cái nước ăn vừa rồi, nói xin lỗi bác, nỏ bần tiện lảm sao!” và “Người đàng hoàng, không ai đòi ăn nước ấy”… Nhũng người ruột thịt cũng bắt đầu nhận thấy sự bất ổn của việc tâm hồn trong sạch, thẳng thắn, hồn hậu của ông Trương Ba lại trú ngụ trong thân xác cồng kềnh, thô tháp cùng nhiều ham muốn “tầm thường” của anh hàng thịt. Họ, người thì âm thầm chịu đựng (bà vợ), thấu hiểu thương cảm (chị con dâu), người có những dị ứng xa lánh bên ngoài nhưng thâm tâm lại đau xót, lo buồn (anh con trai, đứa cháu nội): Bà vợ vẫn luôn nhớ về hình vóc, dáng dấp nhỏ nhắn, mảnh mai của chồng và cố quen dần với thân hình nặng nề của anh hàng thịt với những bữa cơm phải đầy đủ rượu thịt, tiết cành, lòng lọn… Anh con trai, người gánh vác nỗi lo cơm áo cho cả “đại gia đình”, người nuôi chí làm, giàu, tháo vát và thức thòi nhất (từ “điểm nhìn” hiện thòi) – thỉ tính toán rành rọt đến tàn nhẫn: “Thử hỏi nhờ ai mà giữa thời buổi này nhà ta còn được đàng hoàng, tươm tất như vậy? Cả thầy nữa, giờ thầý ăn mỗi bữa 8, 9 bát cơm… Tiền làm vườn chỉ đủ nuôi thân ông Trương Ba chứ không đủ nuôi ông hàng thịt… Thầy còn xỉ vả tôi nỗi gì? Đã đến mức này thầy còn Cáo đạo”! Trước cái tát và cơn giận giữ tột độ của ông Trương Ba, anh ta đã thẳng thùng: “Bố tôi xưa không bao giờ đánh tôi như vậy! Tôi nói thật cho ông biết: Ông không phải là bố tôi, ông không còn là bố tôi nữa!”. Ngay cả đứa cháu nội được cưng chiều, hộp ông nhất cũng không chấp nhận sự có mặt cửa ông “Không! Người này không phải là ông nội tôi… Ông nội tôi là người gầy gầy, tóc bạc, trán nhăn mà mắt sáng lắm, hiền lắm cơ mà! Còn người này thì má béo phì, lông mày rậm như chối xể, trông dữ dữ là… Ông lừa cả nhà, lừa tất cả mọi người nhưng không lừa được tôi đâu! Ông giả vờ làm ông nội, về chiếm chỗ của ông nội trong nhà…”.‘Nhung so với tất cả những điều đó thì những gì đang diễn ra trong con người ông Trương Ba mới thực sự lả xung đột dữ dội nhất, là đỉnh điểm bi kịch của tác phẩm. Cuộc đối thoại thắng thắn tới cùng, màn phân thân tàng màu sắc hậu hiện đại của thi pháp kịch giữa hồn ông Trương Ba và xác anh hàng thịt đã diễn tả khá sâu sắc nỗi hoang mang, hoài nghi và sự bất lực của con người trong cuộc chiến hiện sinh. Mọi lý lẽ yếu ớt mang “màu xám” của ông Trương Ba đã không thể lung lay thứ lập luận lấm láp bụi trần nhưng cũng có đủ “thực chứng” và hùng hồn hơn của anh hàng thịt bởi vì nó, có thể coi là “một phần tất yếu” của cuộc sống.

Việc ông Trương Ba không thể tự dung hoà được phần “cọn” và phần “người” trong sinh thể cá nhân, phải cầu xin Đế Thích trả lại thân xác cho anh hàng thịt, còn ông thì xin được chết lần thứ Hai, “chết hẳn” là sự thể hiện đầy đủ và sâu sắc nhất cốt lõi tư tưởng, ià sự đối thoại chân thành và triết lý nhân sinh -giàu tính hướng thượng của Lưu Quang Vũ. Nhà viết kịch không phủ nhận giá trị cao quý của sự sống nhưng nếu sống mà con người dần dần tự đánh mất phần cao quý trong tâm hồn để chấp nhận một sự tồn tại không tư tưởng, không cảm xúc, và đáng sợ hơn nữa là kiểu sống thiếu trung thực, giả tạo theo mô hình “bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo”… Tất cả nhũng điều đó là hoàn toàn đối lập với quan niệm sống và khát vọng nghệ sĩ trong anh: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” (lời ông Trương Ba). Cách đặt vấn đề và giải quyết xung đột của vở kịch cho thấy nhà viết kịch đã có những phản ứng quyết liệt trước sự áp đặt làm mất quyền được lựa chọn của con người. Mọi sự áp đặt dù mang danh nghĩa nhân đạo cao cả nhất theo Lưu Quang Vũ, suy cho cùng vẫn không thể mang lại cho con người cuộc sống đích thực, vẫn dẫn tới bi kịch, vẫn tiềm ẩn khả năng huỷ diệt, vẫn chứa đựng yếu tố phi nhân… Đó chính là thông điệp mang màu sắc nhân quyền sâu xa mà Lưu Quang Vũ đã gửi gắm vào tác phẩm.

Là một nhà viết kịch nhạy cảm, thông minh và sắc sảo, Lưu Quang Vũ đã rất biết cách khai thác vấn đề từ nhiều tư liệu “nguồn” khác nhau: từ một mẩu tin thời sự trên báo, một vụ án xôn xao dư luận, một hiện tượng xã hội nổi bật, từ kho tàng dồi dàọ của văn hoá dân gian… Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch hiện đại được vay mượn, gọi “tứ” từ một câu chuyện cổ tích. Các yếu tố tự sự dân gian với độ đậm nhạt khác nhau, như được trình bày ở trên, đã ít nhiều có sự thâm nhập, chuyển hoá vào tác phẩm kịch. Tuy nhiên, phần sáng tạo ngoài văn bản, chính xác hơn là nối tiếp, kéo dài ý tưởng của văn bản khiến vở kịch trở nên một “vĩ thanh” độc đáo, đặc sắc của câu chuyện cổ tích mới thục sự là phần đóng góp nổi bật của Lưu Quang Vũ.

Từ một câu chuyện cổ tích có phần mờ nhạt, bằng khả năng đồng hoá, nhào nặn và tái tạo, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được một vở kịch có cấu trúc khá chặt chẽ và ý nghĩa nhân bản đậm đà. Đã hơn 20 năm sau ngày công diễn, Hồn Trương Ba, da hàng thịt vẫn đứng ở vị trí hàng đầu trong sự nghiệp cầm bút, là tác phẩm không chỉ gắn liền với tên tuổi nhà viết kịch trẻ tài năng Lưu Quang Vũ mà còn đưa tên tuổi của ông đến với công chúng nhiều nước trên thế giới.

 

XEM THÊM : Hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm Ông già và biển cả – Ngữ văn 12 ” TẠI ĐÂY “

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận