Giúp em học tốt Ngữ Văn 8 – Tác phẩm “Tức nước vỡ bờ”

Đang tải...

Đọc hiểu tác phẩm “TỨC NƯỚC VỠ BỜ”

(Trích Tắt đèn) Ngô Tất Tố

Những nội dung cơ bản cần nắm vững

1.1. Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng. Ông nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực: khảo cứu triết học cổ và văn học cổ, viết báo, phóng sự, tiểu thuyết, dịch văn học..,

1.2. Tác phẩm Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Qua Tắt đèn, có thể thấy Ngô Tất Tố có thái độ yêu ghét rạch ròi, dứt khoát, sâu sắc và nhất quán của Ngô Tất Tố.

1.3. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ cho thấy bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Đồng thời, đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu yêu thương, vừa có sức sống tiềm tàng,mạnh mẽ.

Vài nét về tác giả, tác phẩm

Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia, đóng góp ở nhiều lĩnh vực: viết báo, tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu triết học, văn học cổ, dịch thuật văn học… và ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được những thành công.

Bên cạnh những công trình khảo cứu giá trị, Ngô Tất Tố có một khối lượng bài báo đồ sộ đề cập đến nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị. Với một lối viết sắc sảo, điêu luyện, giàu tính chiến đấu, một lập trường dân chủ tiến bộ; một phong cách chuyên nghiệp và một giọng điệu châm biếm “rất” Ngô Tât Tố . Ông đã được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” – Vũ Trọng Phụng.

Rất gần với phong cách báo chí ấy nhưng dài hơi hơn, giàu chất văn học hơn là những thiên phóng sự: “Tập án cái đình” (1939), “Việc làng” (1940); … và khó có thể ngờ được rằng tác giả của những bài phóng sự sắc sảo, đanh thép ấy lại củng chính là người đã dịch những bài thơ Đường cổ điển rất thoát và rất có thần.

Ngô Tất Tố đặc biệt nổi tiếng với tư cách là một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và số phận người nông dân dưới chế độ phong kiến, thực dân lúc đó. “Tăt đèn” là tiểu thuyết tiêu biểu, cho mảng đề tài này.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có tiểu thuyết “Lều chõng” tái hiện tỉ mỉ, sinh động chế độ thi cử đương thời với một cảm quan phê phán tính chất khắc nghiệt, tiêu cực, phản khoa học của nền giáo dục, khoa cử phong kiến lúc bấy giờ.

“Tắt đèn” có thể coi là tác phẩm tiêu biêu nhất trong sự nghiệp văn học của Ngô Tất TỐ. Lấy đề tài từ một vụ thuế ở một làng quê đồng bằng Bắc Bộ trong những năm 1930 – 1945, cuốn tiểu thuyết vừa phản ánh được nỗi thống khổ của người nông dân vừa lột trần được bộ mặt bất nhân, tàn ác của giai cấp thống trị.

“Tắt đèn” là một bức tranh thu nhỏ của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với hàng loạt nhân vật điển hình, sinh động. Đó là vợ chồng tên địa chủ keo kiệt, tàn nhẫn; là bọn cường hào tham lam, hống hách; là tên quan bỉ ổi; là những người phụ nữ nông dân bị áp bức, chà đạp đến độ phải vùng lên phản kháng và dù bị vùi dập dưới bùn đen, họ vẫn giữ trọn những phẩm chất đẹp đẽ trong tâm hồn.

Với nghệ thuật tạo tình huống, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh sinh động, những hình tượng điển hình.,, và một cảm quan hiện thực sâu săc, nhất quán, “Tắt đèn” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Cũng chính với tác phẩm này, Ngô Tất Tố được tôn xưng là “Nhà văn của nông dân”.

1. Câu hỏi 1 (GSK, trang 32)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc phần tóm tắt ở đầu đoạn trích trong SGK (phần chữ nhỏ) để xác định tình cảnh chung của chị Dậu trước tình huống xảy ra trong đoạn trích này.

b) Gợi ý trả lời

Khi bọn tay sai xông vào nhà chị Dậu, tình thế của chị đang rất nguy khốn: vụ thuế đang ở vào thời điểm gay gắt nhất, bọn tay sai đang dốc sức đốc thúc những người còn nợ SƯU vì quan sắp về làng thu thuế. Nhà chị Dậu thuộc dạng “cùng đinh”, đã phải chạy vạy hết cách, kể cả là bán con, bán chó mà vẫn chưa đủ tiền nộp SƯU. Anh Dậu bị bắt trói, cùm kẹp đến rũ rượi mới được thả về… Cả nhà đã nhịn đói mấy ngày, vừa mới được bà hàng xóm tốt bụng cho bát gạo để nấu cháo cầm hơi…

Khi bọn cai lệ, ngưòi nhà lí trưởng xông vào, chị Dậu bị đẩy vào một tình thê vô cùng nguy cấp: không có cách gì chạy tiền nộp SƯU mà nếu để anh Dậu bị bắt trói một lần nữa thì mạng sống khó mà giữ được… Hoàn cảnh bế tắc như không lối thòát.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 32)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Phân tích nhân vật trên cơ sở gợi ý của SGK. Em có nhận xét gì về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật của tác giả: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật được thể hiện như thế nào?

b) Gợi ý trả lời

Cai lệ là viên chỉ huy một tốp lính lệ (lính phục vụ, hầu hạ nơi quan nha). Đây là viên chỉ huy cấp thấp nhất trong quân đội của chế độ thực dân phong kiến. Vối chức danh ấy, cai lệ hoàn toàn chỉ là một công cụ, tay sai không hơn không kém. Nhưng đây lại là một công cụ chuyên dụng, một công cụ bằng sắt.

Dù là một tên tay sai mạt hạng hắn cũng có quyền đánh trói người vô tội vạ bởi hắn đại diện cho “nhà nước”, cái nhà nước phong kiến – thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống của ngưòi nông dân. Thực tế ấy được bộc lộ qua lòi cay đắng của anh Dậu: “Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì phải tù, phải tội”.

Chỉ trong một đoạn trích ngắn ngủi, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một hình tượng nhân vật cai lệ rất điển hình với tính cách đậm nét và nhất quán. Những chi tiết miêu tả hành động của hắn “sầm sập tiến vào”; “trợn ngược hai mắt”; “đùng đùng giật phắt cái thừng”; “bịch luôn vào ngực chị Dậu”; “Sấn đến để tóm anh Dậu”; “Tát vào mặt chị Dậu đánh bốp”… cùng thống nhất thể hiện bản chất lỗ mãng, hung hăng, độc ác của hắn. Khi bản chất ấy lộ ra, người ta không còn ngạc nhiên khi thấy tên cai lệ này dưòng như không nghe được tiếng nói con người, không mảy may đếm xỉa đến lời van xin, giãi bày của chị Dậu, và cũng không nói được tiếng ngươi, chỉ thấy hắn “quát”, “thét”, “hầm hè”, “nham nhảm”.

Tác giả đã để chị Dậu đối đáp với cai lệ một vài câu và chỉ qua ngần ấy câu thôi, sự lỗ mãng, thô bạo của cai lệ một lần nữa được khẳng định. Lời giãi bày của chị Dậu càng lễ phép, có lí, có tình bao nhiêu thì lời đáp của cai lệ càng thô tục, hung hãn bấy nhiêu: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”; “Nếu không có tiền nộp SƯU cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!”.

Với tên tay sai mẫn cán, đắc lực của giai cấp thông trị này, lòng trắc ẩn là một khái niệm không tồn tại. Hắn sẵn sàng thẳng tay đánh một người phụ nữ, sẵn sàng bắt trói một ngưòi ốm nặng đến độ không còn sức chống cự, thậm chí đến mạng sống cũng còn khó giữ. Hắn sẵn sàng dỡ nhà, cắm đất, đẩy một gia đình tới bước đưòng cùng chỉ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như vậy, từ ngôn ngữ, cử chỉ đến hành động bủa cai lệ đều thể hiện một bản chất tàn bạo, phi nhân tính của hắn.

Đồng thời, như trên đã nói, cai lệ hành động vối tư cách là ngưòi thừa hành công vụ, là người nhà nước, do đó, hắn chính là đại diện tiêu biểu cho chê độ ấy. Bản chất tàn bạo của hắn cũng chính là bản chất tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Xét ở bình diện này, nhân vật cai lệ đã có một ý nghĩa khái quát hoá cao, là hiện thân sinh động của giai cấp thống trị nói chung, hệ thông địa chủ – cưòng hào ác bá ở nông thôn Việt Nam nói riêng lúc bấy giờ.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 33)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc lướt toàn đoạn trích, chú ý sự thay đổi trong cách xưng hô, giọng điệu, hành động của chị Dậu. Suy nghĩ giải thích căn nguyên của những hành động ấy.

b) Gơi ý trả lời

Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu được đặt vào một tình thế đặc biệt nguy khốn (đã phân tích ở Câu 1). Đó là một hoàn cảnh điển hình, thòi điểm mà tính cách nhân vật được bộc lộ rõ ràng và đầy đủ nhất.

Mở đầu đoạn trích, chị Dậu hiện lên với dáng vẻ của một ngựời vợ nghèo hiền hậu, yêu thương chồng con. Hành động lấy quạt, quạt cho cháo chóng nguội, “rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm”, “đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không”, giọng dịu dàng, lo lắng nói vối chồng… đều thể hiện điều đó.

Khi bọn cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào, chị đã van xin tha thiết. Dáng điệu run run, cách xưng hô cháu – ông, sắc mặt xám lại, lời lẽ quỵ luỵ… của chị đã cho thấy thân phận thấp cổ bé họng của người nông dân xưa. Họ bị áp bức đến độ phải nhẫn nhục chịu đựng, đến độ phải van xin cả những kẻ tay sai mạt hạng nhất của bọn quan lại. Nhưng những lời van xin tha thiết của chị không được đếm xỉa. Đến khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi sấn đến để trói anh Dậu”, chị đã “liều mạng cự lại”: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Hành động “cự lại” của chị lúc này vẫn chỉ là bằng lí lẽ. Chị nói đến cái lí đương nhiên trong cuộc sông, cái đạo lí tôi thiểu trong phép ứng xử giữa người với người. Chị không xưng “cháu” nữa mà xưng “tôi”. Bằng sự thay đổi đó, chị đã đứng thẳng lên, có vị thế ngang hàng với cai lệ. Nhưng rồi lí lẽ cũng chẳng ăn thua. Cai lệ vẫn tàn nhẫn thẳng tay “tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”, chị đã vùng lên: “Chị Dậu nghiến hai hàm rằng: – Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Dương như sự tức giận, phẫn uất đã lên đến cao độ. Chị Dậu không còn ý thức kìm chế theo thân phận bị áp bức của mình nữa mà đã tự xưng là “bà”, gọi cai lệ là “mày”. Cách xưng hô ấy, câu nói hết sức “đanh đá” ấy cho thấy sự căm giận ngùn ngụt của chị. Vị thế giữa chị và cai lệ đã bị đảo ngược. Chị không còn là một người phụ nữ yếu đuôi, bé mọn nữa mà đang nhìn bọn tay sai với tư thê của người trên.

Cảnh tượng chị Dậu quật ngã cai lệ và người nhà lí trưởng thể hiện sức mạnh ghê gớm tiềm ẩn bên trong ngưòi phụ nữ “lực điền”. Đôi lập với bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai, hình ảnh chị Dậu nổi bật lên với tư thế ngang tàng của ngưòi dám đứng lên tự bảo vệ lẽ công bằng cho bản thân và cho những ngưòi thương yêu. Sức mạnh ấy phải chăng chính là sức mạnh của lòng yêu thương? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu, hành động bất ngờ, quyết liệt của chị do bị o bê quá mà thành “tức nước vỡ bò”. Dù là van xin, dù là cãi lí hay phản kháng… cũng chỉ là các cách khác nhau để bảo vệ người chồng ốm yếu trong tình thế nguy kịch. Hiểu như thế chúng ta mới thấy hành động quyết liệt, giọng điệu đanh đá của chị Dậu ở đoạn sau không hề mâu thuẫn với thái độ dịu dàng, nhẫn nhịn, lo lắng ở đoạn đầu, thậm chí còn bổ sung, thông nhất với nhau. Đơn giản vì đó là những biểu hiện khác nhau của một tấm lòng yêu thương chồng con rất mực.

Như vậy, nhân vật chị Dậu đã được xây dựng như một tính cách đa diện: hiền dịu, hi sinh nhưng không hề yếu đuối mà vẫn tiềm tàng một tinh thần phản kháng, một sức sống mạnh mẽ. Chị đã nhận thức được sự bất công và không chấp nhận: “Thà ngồi tù. Để chúng nó. làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Mặc dù, hành động của chị Dậu có tính chất bột phát, chưa giải quyết được vấn đề (sau đoạn này, cả nhà chị Dậu vẫn bị trói, điệu ra đình làng) nhưng đã khẳng định được sức mạnh tiềm tàng của người nông dân, ý thức của họ về sự bất công và báo trước một xu thế tất yếu sẽ xảy ra theo quy luật “Con giun xéo lắm cũng quằn”.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 33)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Cần hiểu ý nghĩa của thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” dựa vào nội dung đoạn trích để tìm ra những lí do dẫn đến việc đặt tiêu đề đó.

b) Gơi ý trả lời

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoán trích này rất thoả đáng. Trước hết, đây là một thành ngữ dân gian; với đặc điểm súc tích, giàu ý nghĩa của những cụm từ cấu trúc kiểu này, nhan đề “Tức nước vỡ bờ” vừa thông nhất, vừa bổ sung, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn trích.

Thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” là một kinh nghiệm mà ông cha ta đã đúc kết, nêu lên một chân lí khách quan: Một sự vật khi bị dồn nén đến một mức độ nhất định tất yếu sẽ phá vỡ khuôn khổ ấy. Có thể nói hành động của chị Dậu được thể hiện trong đoạn trích chính là điểm gặp gỡ giữa Ngô Tất Tô” và tư tưởng người xưa khi cùng thể hiện lôgíc cuộc sống: có áp bức tất có đấu tranh. Rõ ràng, bằng cảm quan hiện thực của mình, nhà văn đã nhận thức được xu hướng tất yếu của thời đại: Người nông dân bị chà đạp, áp bức quá tất sẽ vùng lên đấu tranh. Không chỉ thế, Ngô Tất Tố còn dự đoán trước được sức mạnh phản kháng sẽ vô cùng mạnh mẽ. Dù chưa vạch ra con đưòng đấu tranh tự giác mà sau này Cách mạng tháng Tám đã vạch ra cho nhân dân ta, nhưng với những nhận thức biện chứng, tiến bộ ấy, Ngô Tất Tố đã có một nền tảng để vững vàng đón nhận ánh sáng của Đảng, giác ngộ và hướng ngòi bút theo Cách mạng tháng Tám trong giai đoạn về sau.

5. Câu hỏi 5 (SGK, trang 33)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Chứng minh nhận định trên dựa trên cơ sở tìm hiểu việc tạo dựng tình huống, việc miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đôi thoại trong đoạn văn ấy.

b) Gơi ý trả lời

Đọc đoạn văn “Tức nước vỡ bờ”, chúng ta có cảm giác như đang xem một vở kịch ngắn, trong đó đoạn chị Dậu đánh nhau với hai tên tay sai chính là phần mở nút. Tính kịch không chỉ được thể hiện ở chỗ tác giả chú trọng đến ngôn ngữ đốì thoại, hành động, cử chỉ của nhân vật mà chủ yếu là ở tài tạo lập tình huống, dàn dựng các chi tiết, thúc đẩy sự kiện diễn biến theo một chiều hướng đầy kịch tính. Phải chăng vì lẽ đó, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”?

Trước hết, cái “khéo” của Ngô Tất Tố là đã đấy nhân vật vào một tình huống mà mâu thuẫn đã đạt đến độ gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết: chị Dậu phải tìm mọi cách để đối phó với tên cai lệ và ngưòi nhà lí trưởng, bảo vệ tính mạng cho ngươi chồng đau ốm. Hoàn cảnh điển hình ấy là điều kiện tiên quyết để một nhân vật được nâng lên thành tính cách điển hình.

Trong đoạn trích, ngôn ngữ đốì thoại trở thành một phương tiện hữu hiệu để tác giả khắc hoạ tính cách nhân vật. Đối lập với những lòi nói có lí, có tình của chị Dậu, thì ngôn ngữ thô tục, lỗ mãng của tên cai lệ không thể lẫn và che giấu được một bản chất tàn ác, bất nhân.

Đặc biệt, ngôn ngữ tác giả với giọng điệu châm biếm đã tạo nên vẻ đa diện, sự cuốn hút của đoạn văn. Ngô Tất Tố đã miêu tả cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai một cách sinh động với giọng điệu hài hước ấy. Tiếng cười hả hê của ngưòi đọc bật lên khi được chứng kiến sự đối lập giữa một bên là chị Dậu với tư thế ngang tàng, sức mạnh ghê gớm và một bên là bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai. Tên cai lệ “lẻo khoẻo” bị chị Dậu “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, “ngã chổng quèo trên mặt đất”, còn tên ngưòi nhà lí trưởng cũng chẳng khá hơn, bị “túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Sự hài hước còn toát lên ở chỗ, vừa ngay trước khi bị “chị chàng con mọn” làm cho bẽ mặt, cai lệ và tên ngưòi nhà lí trưởng còn hùng hổ, dữ tợn, tay gậy, tay thước doạ nạt chị. Lúc đó, chúng hung hăng bao nhiêu thì giờ đây chúng thảm bại, tơi tả bấy nhiêu. Trong vài dòng miêu tả, Ngô Tất Tô đã thực hiện việc mở nút “vở kịch” của mình một cách “tuyệt khéo”: các hành động dồn dập nhưng không rối, trái lại, rất rõ nét, đầy đủ, không thừa, không thiếu. Nhờ thế, Ngô Tất Tô” đã “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm” (Vũ Ngọc Phan). Đó là sự hả hê khi được chứng kiến sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác trong xã hội xưa.

Chúng ta cũng không thể không nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật qua việc khắc hoạ diễn biến tâm lí rất tiêu biểu của Ngô Tất Tô trong đoạn văn này. Thái độ, tâm trạng, kéo theo hành động của chị Dậu thay đổi từ chỗ dịu dàng, nhún nhường, nín nhịn, lễ phép, thậm chí quỵ luỵ đến chỗ cứng cỏi, đanh thép và cuôì cùng là quyết liệt, ghê gớm. Diễn biến ấy được miêu tả chân thực, sinh động và hợp lôgíc. Nó khiến cho tính cách nhân vật trở nên đa dạng mà vẫn nhất quán, giàu tính hiện thực.

Như vậy, với sự tài tình trên mọi phương diện (nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tao dựng tình huống, ngôn ngữ…), Ngô Tất Tô đã rất thành công trong đoạn trích này nội riêng và trơng tiểu thuyêt “Tắt đèn” nói chung. Đến đây, có thể khẳng định rằng lòi nhận xét của Vũ Ngọc Phan về đoạn văn là hoàn toàn xác đáng.

6. Câu hỏi 6 (SGK, trang 33)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Giải thích nhận xét của Nguyễn Tuân trước khi đi vào chứng minh. Đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đòi để hiểu hơn ý nghĩa “xui người nông dân nổi loạn” của tiểu thuyết này.

b) Gợi ý trả lời

Như Nguyễn Tuân đã nhận xét, vối tác phẩm “Tắt đèn”, Ngô Tất Tô” đã “xui ngưòi nông dân nổi loạn”. Điều đó có nghĩa là khẳng định giá trị hiện thực và khả năng tác động mạnh mẽ của tác phẩm này. Với cuốn tiểu thuyết của mình, Ngô Tất Tố đã phơi bày bộ mặt xấu xa, đê tiện của bọn địa chủ, cường hào ác bá; đã chỉ ra cho người nông dân thấy rằng cuộc sông của họ đã khổ quá rồi và họ chỉ còn cách phải đấu tranh, không thể chịu đựng hơn được nữa; đồng thòi nhắc họ rằng trong con người họ đang tiềm tàng một sức mạnh ghê gớm cần được phát huy.

Chỉ riêng đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” cũng bao hàm đầy đủ những giá trị đó.

Qua tình huống giằng co giữa một bên là gia đình chị Dậu nghèo xác xơ, không có tiền đóng thuế, đang bị đẩy đến bước đường cùng với một bên là những kẻ đốc thúc, thu thuế cho bằng được; tác giả đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của bọn tay sai nói riêng, của chế độ xã hội đương thời nói chung. Đọc lên, chúng ta không thể không căm giận trước cái ác nghiễm nhiên hoành hành như thế. Bên cạnh đó, tình cảnh khổ sở của gia đình chị Dậu không chỉ khơi gợi niềm cảm thương mà chắc chắn còn khiến độc giả thời đó tự nhìn nhận, ý thức sâu sắc hơn nữa cảnh ngộ của chính mình hay những người xung quanh mình. Quan trọng hơn cả, bằng hành động phản kháng quyết liệt của chị Dậu và sự chiến thắng của chị, tư thế của chị; tác giả đã khẳng định một chân lí cuộc sông “Tức nước vỡ bờ”, đã dự báo xu thế đấu tranh tất yếu của ngưòi dân bị áp bức. Đồng thời, khẳng định sức mạnh tiềm tàng của họ. Một khi người ta đã ý thức được nỗi khổ của mình, ý thức được nguyên nhân nỗi khổ, ý thức được vũ khí, sức mạnh mà họ có, lẽ đương nhiên người ta sẽ đấu tranh. Nói Ngô Tất Tô” đã “xui người nông dân nổi loạn”, chính là vì thế!

Xem thêm: Giúp em học tốt Ngữ Văn 8 – Bố cục của văn bản

Tài liệu tham khảo

(…) “Tắt đèn” đã dựng lên một bức tranh chân thực điển hình về xã hội nông thôn Việt Nam đương thòi, có sức tố cáo mãnh liệt. Qua mấy ngày sưu thuế – tác giả xoáy sâu vào nạn thuế thân, một thứ thuê dã man, quái gở, “một di tích trung cổ” – tác phẩm đã vạch trần bộ mặt tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến và thể hiện thật cảm động cuộc sống cùng quẫn, thê thảm của ngưòi nông dân lao động bị áp bức, bóc lột. Tác phẩm tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp đôi kháng gay gắt trong lòng nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám (…).

Giá trị đặc sắc hơn cả của “Tắt đèn” là ở chỗ đã xây dựng được một điển hình chân thực, đẹp đẽ, khoẻ mạnh về ngưòi phụ nữ nông dân lao động. Qua nhân vật chị Dậu, tác giả không những thấu hiểu nỗi thông khổ của ngưòi nông dân bị áp bức bóc lột mà còn khang định phẩm chất đẹp đẽ ỏ họ, không gì có thể vùi dập. Tác phẩm có những trang thật cảm động, miêu tả nỗi lòng người mẹ, người vợ của chị Dậu. Chị còn là một phụ nữ lao động đảm đang, tháo vát, thông minh. Sống trong nghèo khổ, chị vẫn có một ý thức về nhân phẩm trong trắng mà mạnh mẽ, tiền tài không thể làm vẩn đục, bạo lực không thể khuất phục. Chị Dậu rất mực dịu hiền nhưng không hề yếu đuôi. Khi cần, chị phản kháng dũng cảm, thể hiện một sức sống kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận