Đặc điểm và vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội

Đang tải...

Đặc điểm, vai trò của Triết học

1. Đặc điểm của triết học Mác – Lênin

Triết học Mác – Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin phát triển vào đầu thế kỷ XX. Đây là sự phát triển hợp với quy luật phát triển chung của tư tưởng triết học ừong lịch sử. Do thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, những thành tựu của khoa học tự nhiên và của tư duy lý luận trên lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học và lý luận về chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những điều kiện và tiền đề khách quan cho sự ra đời của triết học Mác – Lênin. Nhờ khái quát được những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, gắn với thực tiễn xã hội và kế thừa, phát triển được những thành tựu của tư duy lý luận trong lịch sử, triết học Mác — Lênin có những đặc điểm nổi bật sau đây:

Thứ nhất, triết học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Điều đó nghĩa là triết học Mác – Lênin không những thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thế giới vật chất tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, mà còn thừa nhận thể giới vật chất vận động, phát triển không ngừng, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động, chuyển hoá lẫn nhau và thông qua đó xác định xu hướng vận động đi lên của các sự vật trong thể giới vật chất.

Thứ hai, triết học Mác – Lênin đã xây dựng được quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành toàn diện và triệt để nhất, khắc phục được tính chất duy tâm về xã hội trong các hệ thống triết học trước đây. Các hệ thống triết học trước Mác, khi giải quyết các vấn đề xã hội đều đứng trên quan điểm duy tâm, không thừa nhận quá trình vận động và phát triển của xã hội tuân theo những quy luật khách quan, không thừa nhận vai trò chủ thể lịch sử của con người, của quần chúng nhân dân, không thừa nhận hoạt động sản xuất vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội. Họ cho các quá trình xã hội là do một lực lượng siêu tự nhiên nào đó quyết định, hoặc do ý muốn chủ quan của một cá nhân nào đó quyết định. Họ không tìm nguồn gốc của quá trình xã hội trong những điều kiện vật chất của hoạt động của con người. Điều này làm cho con người không nhận thức đúng vai trò của nhũng hoạt động sản xuất vật chất và những điều kiện vật chất cho hoạt động của con người, từ đó con người không phát huy được năng lực sáng tạo của mình trong quá trình hoạt động.

Thứ ba, triết học Mác – Lênin xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là những mối liên hệ chung, những quy luật phổ biến của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, phân biệt với đổi tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể. Nhờ vậy đã khắc phục được quan niệm sai lầm cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học, chỉ ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa triết học và lchoa học cụ thể. Triết học không phải là khoa học của mọi khoa học, không thay thế cho các khoa học cụ thể, mà triết học phải dựa vào những nghiên cứu của các khoa học cụ thể để xây dựng các quan điểm lý luận của mình, đồng thời những quan điểm lý luận của triết học lại là cơ sở phương pháp luận cho các khoa học cụ thể. Giữa triết học và khoa học cụ thể không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau, mà quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển của cả triết học và khoa học cụ thể.

Thứ tư, triết học Mác – Lênin là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, luôn gắn với thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội trong đó con người có cuộc sống vật chất đầy đủ, cuộc sống tinh thần phong phú, thật sự công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là một quá trình phát triển rất lâu dài và phức tạp, rất nhiều vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi phải được khái quát về mặt lý luận. Triết học Mác – Lênin với tư cách là hệ thống lý luận phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh đó cũng phải không ngừng phát triển, phải được bổ sung bằng những nội dung mới. Vì vậy triết học Mác – Lênin không những có tính khoa học mà còn có tính cách mạng, tính nhân văn sâu sắc. Nội dung triết học Mác – Lênin không phải là những khẳng định cứng nhắc như những giáo điều, mà nó thường xuyên được kiểm nghiệm, mài sắc qua thực tiễn. Đây là một đặc điểm quan trọng đảm bảo cho triết học Mác – Lênin trường tồn sức sống và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội hiện nay.

Những đặc điểm trên đây của triết học Mác — Lênin quy định phương pháp nghiên cứu môn học này là phải liên hệ thường xuyên với thực tiễn xã hội, với quá trình phát triển của các ngành khoa học hiện đại cũng như với quá trình phát triển của chính triết học trong lịch sử và các trào lưu triết học trên thế giới hiện nay.

2. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đòi sống xã hội

2.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin

Triết học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội như: tổng kết, đánh giá tri thức của con người; phê phán, xác định các giá trị, truy tìm chân lý; phát triển tư duy lý luận; xác định vị trí vai trò của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài; xác định mục tiêu phương hướng hoạt động của con người v.v. Trong số những vẩn đề trên đây, trước hết phải kể đến vấn đề có tính đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế giới quan và phương pháp luận chung nhất.

Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh nhằm giải đáp những vấn đề về mục đích, ý nghĩa cuộc sống cửa con người. Thế giới quan được hình thành trong quá trình con người sống, cải tạo thể giới và phát triển nhận thức. Mặt khác hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người cần thiết phải được định hướng một cách tự giác. Thế giới quan ra đời đáp ứng chính yêu cầu đó. Tuy nhiên có nhiều loại hình thế giới quan và mỗi loại hình thế giới quan có tác động đến hoạt động của con người với mức độ khác nhau. Thế giới quan khoa học phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của hiện thực khách quan, phản ánh đúng mối quan hệ giữa con người và thế giới, vị trí của con người trong thế giới, giúp con người xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động, từ đó con người điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với quy luật khách quan, nhờ vậy hoạt động của con người đạt được hiệu quả cao. Nhưng thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự phát. Muốn hình thành thế giới quan khoa học phải có một cơ sở lý luận khoa học, mà lý luận đó tổng hợp được những tri thức khoa học, tổng kết được kinh nghiệm lịch sử của con người. Lý luận đó chỉ có thể là một hệ thống triết học khoa học. Triết học khoa học là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.

Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn tại nhiều hệ thống triết học khác nhau. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta phân chia các lý thuyết triết học thành các trường phái khác nhau như: triết học duy tâm, triết học duy vật, triết học nhị nguyên, triết học bất khả tri, triết học khả tri v.v. Triết học Mác – Lênin là hình thức phát triển cao nhất và họp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc điểm của triết học Mác – Lênin, như đã trình bày trong mục trên, phản ánh bản chất khoa học và nhân văn của triết học Mác – Lênin. Với những điều trình bày trên đây, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin mới thực sự đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Thông qua việc hình thành thế giới quan khoa học cho con người, triết học Mác – Lênin tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Ngoài vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học, triết học Mác – Lênin còn đóng vai trò phương pháp iuận chung nhất của nhận thức khoa học. và hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận là lý luận về phương phập, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc xuất phát được rút ra từ một hệ thống lý luận để chỉ đạo con người xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp thích hợp nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận quyết định đến việc xác định phương pháp cụ thể thích họp, từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của con người. Trên thực tế, chúng ta thấy có thể mục tiêu, phương, hướng xác định đúng nhưng nếu phương pháp hoạt động không đụng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn. Yì vậy phải có phương pháp luận khoa học, tức là phải có hệ thống các nguyên tắc xuất phát phản ánh đúng quy luật vận động của các sự vật và hoạt động của con người. Nhưng nguyên tắc không thể được đặt ra một cách tùy tiện theo ý muốn thuần túy chủ quan của con người, mà được rút ra từ hệ thống lý luận. Nếu hệ thống lý luận không phản ánh đúng hiện thực khách quan, chẳng hạn hệ thống triết họe duy tâm, thì nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ đó cũng không phải là nhũng nguyên tắc phù họp. Như vậy, sự đúng đắn của hệ thống lý luận là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự đúng đắn của nguyên tắc phương pháp luận. Triết học Mác – Lênin, trong đó có phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận khoa học phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Tính khoa học đó là yếu tố quyết định đảm bảo cho việc xác lập những nguyên tắc phương pháp luận khoa học. Thông qua việc cung cấp phương pháp luận khoa học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ thể, triết học Mác – Lênin thể hiện vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm rằng, triết học Mác – Lênin có thể giải quyết được mọi vấn đề, là nhân tố quyết định hoàn toàn đến sự hình thành các nguyên tắc phương pháp luận khoa học.

Triết học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Mỗi quan điểm, nhận định của triết học Mác – Lênin đều có sự thống nhất giữa quan điểm duy vật và quan điểm biện chứng. Do vậy triết học Mác – Lênin vừa có vai trò thế giới quan, vừa có vai trò phương pháp luận khoa học.

2.2. Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với khoa học tự nhiên và đối với tư duy lý luận.

Triết học Mác – Lênin ra đời trên cơ sở kế thừa những nhân tố hợp lý của các trào lưu triết học trong lịch sử và khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại. Mặt khác, triết học Mác – Lênin lại có vai trò to lớn đối với sự phát triển khoa học tự nhiên hiện đại. Vai trò đó thể hiện ở chỗ: Triết học Mác – Lênin tổng họp toàn bộ tri thức của nhân loại, trong đó có nhũng thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại để xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học, tìm ra quy luật vận động, phát triển của nhận thức nói chung và của nhận thức khoa học tự nhiên nói riêng. Trên cơ sở đó triết học Mác – Lênin xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, giúp khoa học tự nhiên xác định đúng vị trí và phương hướng hoạt động của mình, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi sự ràng buộc của thế giới quan và phương pháp luận duy tâm, siêu hình, sai lầm của các hệ thống triết học lỗi thời. Ph. Ăngghen đã luận chứng về vai trò của triết học nói chung và triết học duy vật biện chứng nói riêng đối với khoa học tự nhiên trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, ông viết: “Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgic, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học đã lỗi thời, hoặc lấy trong những mảnh vụn của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học (đó không những chỉ là những quan điểm rời rạc, mà còn là một mớ hổ lốn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là những trường nhái tồi tệ nhất), hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ các loại mà họ đọc một cách không có hệ thống và không phê phán – cho nên dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học”7. Để khẳng định rõ hơn vai trò của triết học duy vật khoa học, Ãngghen viết tiếp: “Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.

Việc khắc phục cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX là một bằng chứng thực tế, thể hiện rõ vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển khoa học tự nhiên hiện đại. V.I. Lênin đã phân tích sự phát triển của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX, chỉ ra nguyên nhân đưa đến cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự nhiên thời kỳ đó là: Thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của các sự vật bên ngoài cảm giác, ý thức của con người; Thứ hai, không hiểu phép biện chứng duy vật mácxit, không phân biệt được tính chất tương đối của quá trĩnh nhận thức với biện chứng của quá trình nhận thức. Từ đó, V.I. Lênin khẳng định rằng: các nhà khoa học tự nhiên không đứng vững trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng thì nhất định sẽ rơi vào quan điểm duy tâm và sẽ bị thế giới quan đó ngăn cản quá trình nghiên cứu tự nhiên của mình, từ đó dẫn đến kết quả ngăn cản sự phát triển của khoa học tự nhiên. Muốn thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển các nhà khoa học tự nhiên phải tự giác hoạt động theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Triết học Mác – Lênin không chỉ có vai trò to lớn đối với khoa học tự nhiên, mà còn có vai ữò to lớn đối với việc phát triển tư duy lý luận. Tư duy là quá trình vận động của tư tưởng phản ánh hiện thực khách quan bằng các biểu tượng, khái niệm, phạm trù trừu tượng. Tư duy của con người có nhiều trình độ khác nhau: có tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận, tư duy duy cảm, tư duy duy lý v.v. Tư duy lý luận là hình thức tư duy có tính hệ thống và tính khái quát cao hơn tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận không phải là cái có sẵn, tồn tại ở đâu đó trước con người, mà tư duy lý luận được hình thành trong quá trình con người hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Ph. Ăngghen viết: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thòi trước”

Ănghen còn viết: “tư duy lý luận của mồi thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con người”. Như vậy không nghiên cứu lịch sử triết học, đặc biệt không nghiên cứu triết học Mác – Lênin, trong đó có “phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại” sẽ không thể hoàn thiện được năng lực tư duy của con người, hay có thể nói là không thể hỉnh thành được tư duy lý luận. Mà tư duy lý luận lại có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, như Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”.

Tóm lại, triết học Mác – Lênin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho nhận thức khoa học, là tiền đề lý luận quan trong nhất cho sự phát triển tư duy lý luận.

Xem thêm Triết học và đối tượng nghiên cứu của Triết học

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận