Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – Ngữ văn lớp 9 tập 2

Đang tải...

Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới

I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Vũ Khoan: nhà hoạt động chính trị, nhiều năm là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, từng là Bộ trưởng Bộ Thương mại (2000 – 2002), ‘Phó thủ tướng Chính phủ (2002 – 2006).

Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới được đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và được in vào tập Một góc nhìn của trí thức, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002.

II. HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU BÀI

1. Câu hỏi 1 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc nhan đề và đặc điểm chú ý phần chú thích trong SGK, trang 29. Để nắm thời điểm ra đời của bài viết cần đọc lướt qua toàn bộ tác phẩm và tóm tắt nội dung chính hoặc những luận điểm tác giả nêu ra trong bài, liên hệ những kiến thức về tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá của thời điểm đó.

b. Gợi ý trả lời

Bài viết của tác giả Vũ Khoan đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và được in vào tập Một góc nhìn của trí thức. Tác phẩm được viết vào thời điểm hết sức có ý nghĩa, năm 2001, năm mở đầu thế kỉ XXI và thiên niên kỉ thứ ba. Một thời điểm có ý nghĩa bản lề, “chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, và hơn thế nữa, là sự chuyển tiếp giữa hai thiên niên kỉ”. Thế kỉ XX khép lại, cũng là sự chấm dứt của một thế kỉ đã chứng kiến nhiều đau thương, tổn thất của các dân tộc sau hai cuộc chiến tranh thế giới. Đối với Việt Nam, đây là thế kỉ của những chiến công hào hùng, vinh quang của một dân tộc nhỏ nhưng đã chiến thắng hai kẻ thù xâm lược mạrih thế giới là Pháp và Mĩ. Giờ đây, chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, một thế kỉ của tri thức và công nghệ.

Trong khi đó, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển, thế kỉ mới mang đến cho chúng ta rất nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thử thách. Vì thế, để nắm bắt được những cơ hội thuận lợi đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và châu lục, cần phải có sự chuẩn bị một hành trang tốt bước vào thế kỉ mới.

Đây là một vấn đề có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Công cuộc đổi mới bắt đầu từ cuối thập niên 1980 và đến cuối thế kỉ XX, Việt Nam đã đạt được những thành quả vững chắc, bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước có sự thay đổi lớn lao; cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm…) được cải thiện đáng kể, đời sống của ngưòi dân dần nâng cao. Sang thế kỉ XXI, Việt Nam cần duy trì và phát huy tốc độ phát triển ấy để đạt được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Vấn đề tác giả đặt ra không chỉ có ý nghĩa thời sự mà còn có ý nghĩa lâu dài. Bởi lẽ, phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu là điều kiện tiên quyết để phát triển bất kì một quốc gia nào. Đó chính là sự phát huy yếu tố nội lực của chính đất nước trong tiến trình phát triển. Một trong những yếu tố nội lực quan trọng nhất là yếu tố con người. Đó là yếu tố then chốt để giải quyết mọi vấn đề của thế kỉ mới đặt ra cho các quốc gia. Trong việc chuẩn bị hành trang của mỗi quốc gia việc chuẩn bị yếu tố con người chính là bước đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng nhất.

Như vậy, với vị trí của một nhà lãnh đạo của đất nước, trong bài viết này đồng chí Vũ Khoan đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa thời sự và lâu dài. Đó chính là vấn đề chuẩn bị yếu tố con người trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới của Việt Nam ở thế kỉ XXI. Đây không chỉ là vấn đề của riêng một quốc gia mà có tầm ý nghĩa quốc tế rộng lớn.

Căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của nước ta, có thể thấy biến chuyển của thế giới bước vào thế kỉ mới đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức cấp bách.

Thứ nhất: Thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết nhất mà chúng ta cần thực hiện ngay.

Thứ hai: Đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thứ ba: Nhanh chóng tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

Đó là những nhiệm vụ vô cùng lớn lao mà chúng ta chưa thể giải quyết trong một thời gian ngắn và đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Nếu chúng ta muốn thực hiện thành công những nhiệm vụ đó, để đạt được các mục tiêu trong thế kỉ mới cần có sự chuẩn bị rất tốt về mọi mặt, trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc kĩ lại cả bài và các chú thích để hiểu nội dung tác phẩm, cần chú ý đến dấu hiệu chia đoạn (xuống dòng, nội dung chung) để tìm ra hệ thống lí lẽ, trình tự lập luận của tác giả. Vận dụng kiến thức đã luyện tập ở phần Tập làm văn về cách lập dàn ý cho một bài văn nghị luận để trả lời câu hỏi này.

b. Gợi ý trả lời

Đây là một bài văn nghị luận có bei cục rất chặt chẽ, trình tự lập luận của tác giả được triển khai theo dàn ý như sau:

Mở bài: Nêu lên thời điểm và gợi mở vấn đề.

Trong phần này, tác giả đã nêu lên tầm quan trọng có tính chất bản lề của những năm đầu thế kỉ XXI, thời điểm ấy đặt các quôc gia trên thế giới đứng trước cơ hội và thách thức mới. Vì thế, các quốc gia phải tự trang bị một hành trang tốt để bước vào thế kỉ mới, trong đó vấn đề quan trọng nhất là chuẩn bị về con ngưòi. Lớp trẻ luôn đóng vai trò hết sức quan trọng, con người Việt Nam nói chung và lóp trẻ nói riêng cần phải có sự nhận thức đúng đắn về điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể phát huy tốt nhất lợi thế về con người.

Thân bài: Trình bày hai luận điểm chính.

Thứ nhất: Vì sao sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất trong hành trang bước vào thế kỉ mới? Con người luôn luôn là động lực để phát triển xã hội. Đặc biệt trong thế kỉ mới với nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người lại càng nổi bật.

Thứ hai: Nước ta đang đứng trưóc những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức cấp bách. Việc giải quyết được những nhiệm vụ ấy phụ thuộc vào chính sách con người Việt Nam. Trong luận điểm thứ hai, tác giả trình bày những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và ảnh hưởng của chúng tới sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Kết bài: Tác giả khẳng định: Để xây dựng đất nước giàu mạnh, người Việt Nam phải tích cực phát huy những điểm mạnh, loại dần những điểm yếu, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc kĩ đoạn văn từ: “Trong những hành trang ấy… ” đến “… điểm mạnh và điểm yếu của nó Tác giả đã chứng minh cho quan điểm của mình bằng các luận cứ nào?

b. Gợi ý trả lời

Quan điểm cho rằng: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất ” là xác đáng và được rút ra trên cơ sở khoa học, thực tiễn cụ thể.

Trước hết, “Từ cổ chí kim, bao giờ con người củng là động lực phát triển của lịch sử”. Đó là một quan điểm phù hợp với nhân sinh quan của chủ Ịighĩa duy vật lịch sử, cho rằng con người là chủ nhân sáng tạo ra lịch sử. Từ khi xuất hiện trên trái đất, con người đã lao động, sáng tạo để làm ra của cải vật chất, phương tiện và phục vụ chính nhu cầu đa dạng của mình. Nhu cầu tiêu thụ ấy chính là động lực để con người không ngừng sáng tạo, phát triển thế giới. Tình hình thế giới ở thế kỉ XXI chắc chắn có nhiều thay đổi: “nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ”. Ở thế kỉ này yếu tố tri thức, trí tuệ, còn gọi là chất xám sẽ chiếm tỉ trọng cao trong giá trị của các sản phẩm và trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Trình độ phát triển cao của nền kinh tế có được là do sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Thế kỉ XX nhân loại đã chứng kiến những phát minh vĩ đại, kì diệu của con người trong tất cả các lĩnh vực. Do tác động của những tiến bộ về khoa học và kĩ thuật, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế sẽ sâu rộng hơn, thường xuyên hơn. Nếu không có trình độ tri thức nhất định, một quốc gia sẽ rất khó khăn để tiếp thu những thành tựu ấy và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu với những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Trong hoàn cảnh ấy, vai trò của con người sẽ càng nổi trội hơn.

Tình hình nước ta ở đầu thế kỉ XXI cũng được tác giả phân tích cặn kẽ. Căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước và đòi hỏi của điều kiện khách quan, chúng ta xác định rõ ba nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện.

Thứ nhất: Thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ hàng đầu bởi Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật còn khá lạc hậu, thu nhập của người nông dân còn rất thấp lại bấp bênh nên đời sống của đại bộ phận nông dân còn rất khó khăn.

Thứ hai: Muốn phát triển nông nghiệp cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dần đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp.

Thứ ba: Phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức, nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tụt hậu, khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới ngày càng lớn.

Gánh vác trọng trách thực hiện những nhiệm vụ trên không thể là một nhân tố nào khác mà chính là con người Việt Nam. Dù khoa học công nghệ có phát triển đến trình độ nào đi chăng nữa, thậm chí người ta đã sáng tạo ra những rô-bốt làm thay con người trong một số lĩnh vực, nhưng vẫn không thể thay thế được vai trò của con người.

Như vậy, dựa trên những căn cứ khoa học, sự phân tích rất cặn kẽ, tác giả đã khẳng định một quan điểm đúng đắn: Trong hành trang bước vào thế kỉ mới, cơn người là yếu tố quan trọng nhất giúp chúng ta nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Sự chuẩn bị bản thân con người, sự đầu tư thích đáng cho giáo dục đào tạo con người một cách toàn diện chính là sự chuẩn bị cần thiết nhất và trọng yếu nhất trong hành trang của mỗi dân tộc khi tiến vào thế kỉ XXI.

Xem thêm Các thành phần biệt lập (tiếp theo) tại đây.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc kĩ đoạn văn từ: “Trong một thế giới… ” đến “… kinh doanh và hội nhập Tác giả đã nêu ra những điểm mạnh và điểm yếu gì của con ngươi Việt Nam? Có thể căn cứ vào dấu hiệu hình thức (xuống dòng, ngắt quãng…) để tìm ra những điểm đó và chú ý sự phân tích của tác giả về ảnh hưởng của chúng đến sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nưốc.

b. Gợi ý trả lời

Với những căn cứ khoa học, tác giả đã khẳng định “con người là nhân tố quan trọng nhất” trong hành trang bước vào thế kỉ mới của các quốc gia và làm nên sự nghiệp xây dựng đất nước và đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Muốn hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, con người Việt Nam, đặc biệt là: “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới Vì thế trong bài viết của mình, đồng chí Vũ Khoan – với vị trí là nhà lãnh đạo đã nêu lên và phân tích cặn kẽ những điểm mạnh và điểm yếu trong tính cách, thói quen của người Việt Nam cũng như ảnh hưởng của nó tới nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Điểm mạnh đầu tiên mà ông đề cập đến là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Điều này không chỉ chúng ta nhận biết được mà đã được thế giới thừa nhận. Trong thế kỉ mới, sự sắng tạo của con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng thì bản chất trời phú ấy của chúng ta rất hữu ích. Sự nhạy bén là điều kiện để con người nắm bắt được một cách nhanh nhất những cơ hội thuận lợi để trở thành người đi đầu trong các lĩnh vực, tránh được những sự cạnh tranh khốc liệt.

Không chỉ thông minh, người Việt Nam ta còn rất cần cù, sáng tạo. Đó là một phẩm chất rất quan trọng khi chúng ta xây dựng một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỉ luật cao và thái độ nghiêm túc với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Cần cù là một đức tính rất đặc trưng của con người Việt Nam, được hình thành trong thời kì lịch sử lâu dài cùng quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, cùng tính sáng tạo và sự thông minh sẽ là những lợi thê khi chúng ta tiếp thu, học hỏi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ trên thế giới áp dụng vào sản xuất.

Nhân dân ta có truyền thống đùm bọc, đoàn kết với nhau. Đó là một truyền thống quý báu của ngưòi Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền thông ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch giúp dân ta làm nên chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu Điểm mạnh ấy cũng là một điểm tựa vững chắc cho chúng ta vượt lên mọi thách thức, tận dụng mọi cơ hội trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới ở thế kỉ XXI, nhất là: “Trong một thế giới mạng, ở đó hàng triệu người, trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng in-tơ-nét thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được

Và tính thích ứng nhanh cũng là một điểm mạnh, điều kiện tốt để chúng ta có thể tận dụng những cơ hội và đối phó với thách thức do tiến trình hội nhập mang lại. Bởi nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu thế toàn cầu hoá, sự hội nhập là không thê tránh khỏi của các quốc gia nếu muốn, tồn tại và phát triển.

Đó là thuận lợi song cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho các quốc gia, nhất là những nước đang phát triển như nưốc ta.

Nhưng bên cạnh những điểm mạnh đó, người Việt Nam chúng ta cũng còn không ít điểm yếu cần nhanh chóng khắc phục. Những điểm yếu ấy luôn luôn song hành với những điếm mạnh, thậm chí có khi ngay trong bản thân điểm mạnh lại “ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức Chúng ta cần phải nghiêm túc và thẳng thắn nhìn nhận ra những khuyết điểm ấy để có ý thức rèn luyện và khâm phục.

Trong khi người Việt Nam có được sự thông minh, nhạy bén “trời phú ” thì điểm yếu là “những lỗ hổng về kiên thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng””. Đây là một thực tế đang tồn tại trong đại bộ phận tri thức Việt Nam, nhất là giới trẻ. Với tâm lí thực dụng, nhiều người cho rằng học cốt sao chỉ để sau khi ra trường kiếm được một nghề có thu nhập khá chứ không phải để tích luỹ, để cống hiến. Thêm vào đó là sự tồn tại của rất nhiều bất cập trong hệ thống giáo dục của nước ta đã “sản sinh ” ra rất nhiều trí thức chỉ biết “học vẹt, học chay ” chứ khả nảng thực hành lại rất kém. Hiện nay, có rất nhiều sinh viên khi ra trường cầm theo tấm bằng với một kết quả “rất đẹp ” nhưng khi bắt tay vào công việc thì khả năng rất hạn chế, đây là chưa kể nhiều người chỉ ngồi vào cho “đủ chỗ” chứ chẳng biết làm việc gì. Những lỗ hổng này rất nguy hiểm khi chúng ta bước vào nền kinh tế công nghiệp hoá chứa đựng những tri thức cơ bản và biến động không ngừng. Nếu chúng ta không khắc phục thì đương nhiên chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thế giới.

Điểm yếu thứ hai là người dân Việt Nam thiếu đức tính tỉ mỉ mặc dù rất cần cù. Chúng ta không có thói quen coi trọng khâu lập chương trình và chuẩn bị công việc. Vì thế, công việc nhiều khi chồng chéo và người làm việc không thể chủ động với công việc của chính mình. Với nền kinh tế công nghiệp hoá, chúng ta không có sự sắp xếp công việc một cách cẩn thận và khoa học thì chắc chắn không thể hoàn thành những nhiệm vụ của mình trong một thời gian đã được quy định chặt chẽ. Hơn nữa, chúng ta lại ỷ vào tính sáng tạo của mình để cải tiến làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Tác phong nông nghiệp đã ăn sâu vào căn tính của người lao động Việt Nam, tạo ra tâm lí thoải mái, đủng đỉnh “nước đến chân mới nhảy ” là một hạn chế rất lớn khi làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Trong một xã hội ‘‘hậu công nghiệp ” tác phong đó là vật cản ghê gớm.

Khuyết điểm thứ ba của chúng ta chính là sự thiếu đoàn kết, thiếu tính cộng đồng trong công việc làm ăn. Mặc dù trong kháng chiến chống ngoại xâm nhân dân ta đã đoàn kết chặt chẽ tạo nên sức mạnh kì diệu. Nhưng bước vào thời kì hoà bình, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thì truyền thông đó đã không được phát huy. Tính đố kị vốn có của lốỉ sống theo thứ bậc (không quan tâm đến năng lực), đã ăn sâu trong bản tính của người dân Việt Nam và là rào cản lớn cho sự hợp tác, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Nhất là khi họ phải đi làm ăn ở nơi xa, kể cả ở nước ngoài. Tác giả đã có sự so sánh bằng những ví dụ rất sinh động, chân thực: “Người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau song người Việt Nam lại thường đố kị nhau… Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng tác hại của nó đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là không nhỏ. Chúng ta phải tích cực hợp tác với rất nhiều đối tác nước ngoài để vực nền kinh tế đi lên. Sự hợp tác ấy rất cần thiết cho chúng ta khi trình độ kĩ thuật, công nghệ của nưóc ta còn hạn chế song nó cũng rất khắc nghiệt. Vậy nên, nếu bản thân ngưòi Việt Nam lại kì thị lẫn nhau trong việc làm ăn thì rõ ràng chúng ta đã tự kìm buộc, làm hại chính mình. Không đoàn kết cùng nhau tạo ra sức mạnh tổng hợp vì mục tiêu chung thì chắc chắn chúng ta rất khó thực hiện được những nhiệm vụ phát triển đất nước đã đặt ra.

Có thể nói những điểm mạnh, điểm yếu luôn tồn tại song hành trong bản thân mỗi con người. Nhưng không phải ai, không phải lúc nào chúng ta cũng dám nhìn nhận những điểm yếu đó và tìm cách khắc phục. Trong khi đó những hạn chê lại đang tạo ra những cản trở rất lớn cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước và tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Đứng trước những cơ hội và thách thức của thế kỉ mổi chúng ta cần phải nhìn nhận một cách khách quan những điểm mạnh, điểm yếu của người Việt Nam để có cách phát huy và khắc phục thích hợp, góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

5. Câu hỏi 5 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc phần 2 của tác phẩm (từ “Cái mạnh… ” đến “… quá trình kinh doanh và hội nhập ”) và tham khảo phần trả lời câu hỏi 4 để hệ thông lại phẩm chất, điểm yếu của người Việt Nam mà tác giả đã trình bày. Đây là một câu hỏi khó, cần có kiến thức rộng để so sánh nên các em phải tham khảo ý kiến của thầy cô.

b. Gợi ý trả lời

Những tác phẩm văn học và những bài học lịch sử đã giúp chúng ta hiểu một cách khá sâu sắc về con người Việt Nam qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Chúng ta trân trọng những phẩm chất quý báu của nhân dân ta là thông minh, sáng tạo, anh hùng, bất khuất, trung hậu, chân tình và chất phác. Những đức tính sáng ngòi trên mỗi trang sử hào hùng của dân tộc, kết tinh ở những nhân vật vĩ đại trong lịch sử: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hay những nhân vật bình dị như: chị út Tịch, chị Tư Hậu, anh hùng Núp… yêu nước nồng nàn, dũng cảm, kiên cường trước quân thù; những con người như anh thanh niên trên đỉnh núi cao Sa Pa trong Lặng lẽ Sa Pa; nhân vật “tôi” trong Mùa xuân nho nhỏ, đang âm thầm cống hiến, hi sinh cả cuộc đòi cho sự phát triển của đất nước… Tất cả những con người đó, dù là nhân vật có thực trong lịch sử hay là những nhân vật hư cấu trong văn học đều là những đại diện tiêu biểu cho những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.

Những truyền thông tốt đẹp đó chúng ta luôn nâng niu, trân trọng và phát huy trong công cuộc đổi mới đất nước. Song đất nước ta đang đứng trước thềm của thế kì XXI với những sự đổi thay to lớn, nhất là tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đặt ra rất nhiều thách thức đối với tất cả các quốc gia. Trong khi đó, nhiều điểm yếu của người Việt Nam đã bộc lộ và ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải có sự nhìn nhận hết sức khách quan về những điểm mạnh cũng như điểm yếu để rèn luyện, phát huy những thói quen, đức tính tốt phù hợp với nền kinh tế mới. Trong bài viết của mình, tác giả Vũ Khoan đã xuất phát từ thực tế lịch sử, từ tấm lòng yêu nước sâu sắc, từ sự lo lắng, trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước, ông đã thẳng thắn nêu lên một cách toàn diện và xác đáng cả những mặt mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam để cùng nhìn nhận và tự khắc phục. Thái độ nhận xét của tác giả là khách quan, công bằng và dũng cảm. Như vậy, có thể nói những phẩm chất tốt đẹp, đức tính đáng quý của con ngưòi Việt Nam đã được rất nhiều học giả đề cập và ngợi ca trong bài viết của mình; nhưng những điểm yếu, những mặt còn tồn tại thì không phải ai cũng thẳng thắn nhìn nhận. Vì thế, những phân tích của tác giả Vũ Khoan rất khách quan, đúng mực và đáng tôn trọng.

Qua những phân tích cặn kẽ của tác giả, mỗi chúng ta đều cảm thấy phải có trách nhiệm nhìn nhận và rèn luyện mình nhằm khắc phục những hạn chế đó.

6. Câu hỏi 6 (SGK, trang 30)

a. Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc lại tác phẩm, chú ý phần Thân bài để chỉ ra các thành ngữ, tục ngữ mà tác giả đã sử dụng có thể căn cứ vào dấu hiệu hình thức; các thành ngữ, tục ngữ thường được tác giả đặt trong dấu ngoặc kép.

b. Gợi ý trả lời

Trong bài viết của mình, tác giả Vũ Khoan đã vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ rất quen thuộc: Nước đến chân mới nhảy, Liệu cơm gắp mắm; Nhiễu điều phủ lấy giá gương; Trâu buộc ghét trâu ăn; Bóc ngắn cắn dài.

Những thành ngữ, tục ngữ này có ý nghĩa đúc kết những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử thế, của cha ông ta từ hàng ngàn năm. Đó là những thành ngữ, tục ngữ rất quen thuộc trong lời ăn tiếng nói của nhân dân ta. Đưa ra những thành ngữ, tục ngữ này, tác giả muốn trình bày những phương châm sống, những lối nghĩ truyền thông của người dân Việt Nam. Chúng thể hiện cả điểm yếu và điểm mạnh của chúng ta. Đồng thòi khi vận dụng những thành ngữ, tục ngữ này tác giả đã làm cho bài nghị luận của mình thêm sinh động, cách nói dễ hiểu, bình dị hơn, gần gũi vối tầng lớp nhân dân, chứ không phải là những lời to tát, hô khẩu hiệu. Trích dẫn những thành ngữ, tục ngữ này trong bài viết, tác giả đã tăng thêm sức thuyết phục cho lí lẽ, đồng thòi tạo ra nét giản dị, súc tích của bài nghị luận.

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận