Chủ nghĩa duy vật biện chứng và thế giới quan khoa học

Đang tải...

Duy vật biện chứng, thế giới quan khoa học

Triết học và thế giới quan triết học không đồng nhất với nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Thế giới quan là một trong những chức năng quan trọng nhất của triết học. Ngược lại triết học là hạt nhân lý luận của thể giới quan.

Khi triết học ra đời, thế giới quan của con người có một phương tiện mới để thể hiện và được củng cố vững chắc, đã đi sâu vào đời sống của con người và xã hội. Mỗi hệ thống triết học đều làm cơ sở và đồng thời thể hiện một thế giới quan nhất định. Vì vậy để thấy rõ vai trò của triết học trong đời sống xã hội, đặc biệt vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng – một trào lưu triết học khoa học – trong việc hình thành thế giới quan khoa học, chúng ta hãy nghiên cứu đặc trung của hai khuynh hướng triết học cơ bản trong lịch sử: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học

Để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phải căn cứ vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của triết học và quy định đến cách giải quyết những vấn đề triết học cụ thể khác, vấn đề cơ bản của triết học, như Ănghen nói, đó là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay giữa ý thức và vật chất. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

1- Giữa tư duy và tồn tại, hay giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào, ý thức hay vật chất?

2- Ý thức của chúng ta có thể phản ánh đúng thế giới khách quan hay không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

Hai câu hỏi trên đồng thời cũng là vấn đề cơ bản của thế giới quan. Bởi vì định nghĩa về thế giới quan đã nêu trong phần trên khẳng định: Thế giới quan là hệ thống quan niệm của con người về thế giới, về vị trí con người trong thế giới. Hệ thống quan niệm đó không thể không liên quan đến nội dung của mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Do vậy chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thể hiện hai lập trường thế giới quan khác nhau.

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức của con người. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm khẳng định ý thức, tinh thần có trước vật chất và quyết định sự tồn tại của vật chất.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều ra đời từ thời kỳ cố đại với tư cách như những hệ thống lý luận của hai lập trường thế giới quan đối lập nhau và thường xuyên đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, đồng thời là động lực nội tại cho sự phát triển của triết học trong lịch sử. Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có sự biến đổi, nhưng chủng vẫn luôn luôn đối lập nhau trong việc giải quyết môi quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau như: chủ nghĩa duy vật chất phác ở thời kỳ cổ đại; Chủ nghĩa duy vật siêu hình mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu; chủ nghĩa duy vật biện chúng do Mác, Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX và Lênin phát triển vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. những hình thức tồn tại khác nhau đó của chủ nghĩa duy vật gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội, nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước, độc lập với ý thức và quyết định sự tồn tại của ỷ thức. Chủ nghĩa duy vật đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới, đều cho sự tồn tại của ý thức phụ thuộc vào vật chất, là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người. Ý thức không tồn tại độc lập với vật chất, bên ngoài thế giới vật chất.

Chủ nghĩa duy tâm có hai loại chủ yếu là: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng như Platôn, Hêghen. cho rằng thực thể tinh thần với những tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “tinh thần tuyệt đối”, “lý tính thế giới”, không những tồn tại trước, độc lập với thế giới vật chất, mà còn sản sinh ra và quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng và quá trình trong tự nhiên và trong xã hội đều là sự thể hiện của thực thể tinh thần đó. Platôn cho rằng thế giới các ý niệm tồn tại vĩnh viễn, trước thế giới các sự vật cảm tính. Các sự vật trong thế giới cảm tính chỉ là “cái bóng” của thế giới ý niệm. Hêghen cho các sự vật trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là “tồn tại khác” của tinh thần thế giới, chỉ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của tinh thần thế giới trong quá trình vận động phát triển của tinh thần thế giới mà thôi.

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng như Béc-cli, Hi-um, Ma-khơ cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có trước tồn tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức và quyết định sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới; các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ là phức hợp các cảm giác của con người mà thôi, hoặc chỉ là sự kết họp các yếu tố tinh thần của con người.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái tinh thần, ý thức, nhung thống nhất với nhau ở một điểm cơ bản là đều thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết định sự tồn tại của vật chất.

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy tâm là lý luận triết học sai lầm. Tuy nhiên không nên có thái độ xem thường, phỉ báng chủ nghĩa duy tâm và các nhà triết học duy tâm. Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều nhà triết học duy tâm có những đóng góp xuất sắc vào sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại, chẳng hạn như Platôn, Hêghen.

Sai lầm của chủ nghĩa dựy tâm có nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội.

Nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm là ở chỗ thổi phồng, tuyệt đối hoá một mặt, một yếu tố, một giai đoạn nào đó của quá trình nhận thức, tách rời một giai đoạn nào đó của quá trình nhận thức khỏi toàn bộ quá trình nhận thức biện chứng, sinh động, phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người. Lênin viết: “theo quan điểm của một chủ nghĩa duy vật thô lỗ, đơn giản, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá. Của một trong những đặc trưng, của một trong những mặt, của một ừong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi tự nhiên, thần thánh hoá”.

Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là ở chỗ, con người, xã hội đó quá đề cao vai trò của lao động trí óc, tách rời Ịao động trí óc khỏi lao động chân tay, đó là thể hiện quan điểm, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị bảo thủ, muốn đề cao địa vị của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị, phản động đó duy trì, củtig cố chủ nghĩa duy tâm, sử dụng nó làm vũ khí tinh thần của mình để chống lại các tư tưởng tiến bộ, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

Chủ nghĩa duy tâm triết học cho răng ý thức, tình thần tồn tại độc lập và quyết định sự tồn tại của vật chất. Do vậy, về mặt thế giới quan, chủ nghĩa duy tâm triết học có sự thống nhất với thế giới quan tôn giáo, thừa nhận thực thể tình thần (dưới tên gọi “chúa”, “thượng đế”.) là cái có trước và sáng tạo ra thế giới vật chất. Vì vậy tôn giáo thường sử dụng các học thuyết triết học duy tâm làm cơ sở lý luận của mình, tuy nhiên cần thấy sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm triết học và tôn giáo cả về phương diện hình thức biểu hiện, cả về phương diện tính chất và trình độ phản ánh hiện thực. Tôn giáo chủ yếu dựa vào lòng tin về sự íồn tại chúa – đấng sáng tạo, lấy lòng tin thay cho tri thức. Trái lại chủ nghĩa duy tâm triết học dựa vào tri thức, vào lý trí, là sản phẩm của tư duy lý tính được thể hiện bằng hệ thống các khái niệm trừu tượng, các khái niệm được rút ra từ sự khái quát những tài liệu thực chứng và từ sự suy luận lôgic. Tuy nhiên sự khái quát này có thế bị tuyệt đối hoá một mặt nào đó, trở nên duy tâm phiến diện. Như vậy có thể nói tôn giáo là biểu hiện đặc thù của thế giới quan duy tâm, còn chủ nghĩa duy tâm triết học là cơ sở lý luận của tôn giáo.

Chủ nghĩa duy vật thừa nhận sự tồn tại độc lập, khách quan của thế giới vật chất, giải thích tự nhiên từ chính tự nhiên. Điều đó cũng có nghĩa là chủ nghĩa duy vật không thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới vật chất từ một lực lượng siêu tự nhiên. Do vậy về mặt thế giới quan, chủ nghĩa duy vật ừiết học đối lập với tôn giáo và về cơ bản gắn với khoa học tự nhiên, phát triển cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật thường là thế giới quan của các lực lượng xã hội cách mạng, tiến bộ trong lịch sử phát triển của xã hội.

Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái triết học chính, thể hiện hai lập trường thế giới quan đối lập nhau, luôn luôn đấu tranh với nhau. Bất cứ học thuyết triết học triệt để nào cũng thuộc một trong hai trường phái trên, hoặc chủ nghĩa duy vật, hoặc chủ nghĩa duy tâm, không có trường phái trung gian. Đó là tính đảng trong triết học, và với nghĩa đó, triết học bao giờ cũng có tính đảng. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xét đến cùng thể hiện cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích đối lập nhau trong xã hội. Tuy nhiên trên thực tế không phải bao giờ và ở đâu sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm cũng thể hiện rõ ràng (thí dụ, trong tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng và triết học phương đông nói chung sự phân biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là không rõ ràng), do vậy không nên quy kết một học thuyết triết học nào đó thuộc về chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy tâm một cách giản đơn. Thí dụ, tư tưởng đạo đức của Nho giáo, mặc dù dựa trên quan điếm duy tâm về các tính của con người, nhưng có nhiều nội dung có giá trị tích cực giáo dục cách ứng xử giữa con người với nhau, mà cách ứng xử đó vẫn phù họp trong xã hội hiện nay. Hoặc một thí dụ khác, quan niệm về trời của Nho giáo, có lúc cho rằng trời sinh ra con người và vạn vật. Mỗi người có một mệnh do trời quyết định, không thể khác được. Con người chỉ có bổn phận làm theo mệnh trời. Như Khổng Tử nói: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ đại nhân và sợ lời nói của ông thánh”7. Thừa nhận có mệnh trời định trước, con người không thể làm khác được, đó là quan điểm duy tâm. Tuy nhiên Khổng Tử lại cho rằng: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn thay đổi”. Biết được mệnh trời thì làm việc gì cũng dễ dàng. Một quân vương mà làm theo mong muốn của muôn dân là làm theo ý trời”. Trong luận điểm trên, trời không được coi là lực lượng sai khiến nữa, mà chỉ là một mục tiêu hướng tới, còn nhân tố quyết định hành động của con người lại là các quan hệ xã hội hiện thực, quan hệ với “muôn dân”.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm giải thích thế giới xuất phát từ một nguyên thể hoặc từ vật chất, hoặc từ tinh thần được gọi là triết học nhất nguyên. Ngoài hai trường phái cơ bản trên đây, còn có những trường phái triết học xuất phát từ hai nguyên thể là vật chất và ý thức để giải thích thế giới. Những nhà triết học đó được gọi là triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên muốn điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng thực chất vẫn thuộc vào chủ nghĩa duy tâm. Bởi vì triết học nhị nguyên thừa nhận ý thức là yếu tố tồn tại độc lập ngoài vật chất. Điều đó tất yếu đi đến thừa nhận có thế giới tinh thần phi vật chất tồn tại độc lập bên cạnh thế giới vật chất.

Mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Hay nói cách khác những “biểu tượng” trong ý thức của con người có khả năng phản ánh đúng thế giới khách quan hay không?

Đa số các nhà triết học (trong đó bao gồm cả một số các nha triết học duy tâm) khẳng định khả năng nhận thức của con người. Tuy nhiên nguyên tắc thừa nhận khả năng nhận thức của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khác nhau căn bản. Chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người như chủ nghĩa duy vật, mà cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm, hoặc sự tự nhận thức của tinh thần thế giới, hoặc sự tự sản sinh ra ý thức của chủ thể bằng cách kết hợp các cảm giác của chủ thể.

Ngoài đa số các nhà triết học thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, còn có một số ít các nhà triết học phủ nhận khả năng đó. Đó lả những nhà triết học theo thuyết không thể biết. Những nhà triết học theo thuyết không thể biết đã thổi phồng tính tương đối của nhận thức, biến tính tương đổi của nhận thức thành nguyên tắc nhận thức, nghi ngờ mọi tri thức. Đó là cách hiểu không đúng về bản tính biện chứng của quá ừình nhận thức, tách rời biện chứng chủ quan khỏi biện chúng khách quan, tuyệt đối hoá yếu tố hoài nghi, vốn là yếu tố cần thiết để chống tính chất bảo thủ, giáo điều ừong nhận thức. Thuyết không thể biết vì vậy làm cho con người rơi vào tình trạng thụ động trước hiện thực xã hội, không tin tưởng vào khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của mình. Thuyết không thể biết phản ánh tâm trạng bi quan của những lực lượng xã hội lỗi thòi, muốn ngăn cản sự tiến bộ, kìm hãm năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Đây cũng chính là nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội của thuyết không thể biết.

Tóm lại, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện hai lập trường thế giới quan triết học đối lập nhau, đấu tranh với nhau trong tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng, thể hiện cuộc đấu tranh giữa những lực lượng xã hội đối lập nhau trong lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật có xu hướng đối lập với tôn giáo, gắn với sự tiến bộ khoa học, chủ nghĩa duy tâm có xu hướng ngả theo tôn giáo, đối lập với sự phát triển khoa học.

2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và thế giới quan khoa học

2.1. Khái niệm thế giới quan khoa học

Trong phần trên đã trình bày, thế giới quan là hệ thống nhũng quan điểm chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và thế giới, là kết quả quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Thế giới quan phụ thuộc vào sự phát triển của thực tiễn xã hội và trình độ nhận thức của con người, do vậy sự phù hợp của thế giới quan với hiện thực khách quan phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và sự khái quát các thành tựu khoa học. Để xác định mức độ phù hợp của thế giới quan với hiện thực khách quan, người ta đưa ra khái niệm thế giói quan khoa học. Thế giới quan nào phản ánh đúng hiện thực khách quan thì được gọi là thế giới quan khoa học. Tuy nhiên tính đúng đắn của thế giới quan bị quy định bởi nhiều yếu tổ và được thể hiện trên nhiều mặt, trong đó suy đến cùng phải có sự xác nhận của thực tiễn.

Với những yêu cầu về thế giới quan khoa học như vậy ta có thể nêu định nghĩa khái quát như sau: Thế giới quan khoa học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù phản ánh khái quát, đúng đắn quan hệ của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong hiện thực khách quan cùng những quan hệ giữa con người với thế giới và vị trí con người trong thế giới, hướng dẫn hoạt động thực tiễn và nhận thức khoa học của con người đạt hiệu quả cao. Thế giới quan khoa học dựa trên cơ sở lý luận triết học khoa học, phản ánh đúng hiện thực khách quan. Triết học khoa học làm cơ sở lý luận cho thế giới quan khoa học, muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan, phải khái quát được những thành tựu của khoa học hiện đại, phải phản ánh đúng xu hướng vận động, quy luật phát triển của thực tiễn xã hội, phải gắn liền với thực tiễn xã hội. Trong các hệ thống triết học từ trước tới nay thì chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống triết học khoa học nhất, thực sự là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học.

2.2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học

Chủ nghĩa duy vật biện chúng ra đời thực sự là một cuộc cách mạng trong thế giới quan, làm cho thế giới quan của con người có cơ sở lý luận khoa học, từ đó hình thành thế giới quan khoa học. Đồng thời, thông qua chức năng thế giới quan, chủ nghĩa duy vật biện chứng thế hiện vai trò của mình ngày càng to lớn đối với đời sống xã hội. Sở dĩ chủ nghĩa duy vật biện chứng đóng vai trò cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học vì chủ nghĩa duy vật biện chứng có những đặc điểm sau đây:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn

Trải qua quá trình phát triển hơn 2.500 năm, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc xác lập quan niệm duy vật về thế giới, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, bảo vệ những tư tưởng khoa học, góp phần tích cực vào quá trình biến đổi, cải tạo thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn còn những hạn chế mang tính lịch sử của mình. Đó là:

– Trong việc xem xét những hiện tượng tự nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác đứng trên quan điểm duy vật, nhưng trong việc xem xét đời sống xã hội, do hạn chế về lịch sử và bị quy định bởi lợi ích giai cấp, chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn đứng trên quan điểm duy tâm, chưa xác định được những lực lượng vật chất, những quy luật khách quan quyết định sự vận động phát triển của xã hội. Như vậy, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chưa triệt để, mới duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, duy vật “một nửa”.

– Do tính chất siêu hình, máy móc và trực quan, nên chủ nghĩa duy vật trước Mác không thấy được mối quan hệ biện chúng giữa vật chất và ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức, phủ nhận vai trò của ý thức đối với vật chất, không thấy sự tác động vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

– Chủ nghĩa duy vật trước Mác còn thiếu quan điếm thực tiễn, không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên không thể giải quyết một cách khoa học, duy vật triệt đế vấn đề cơ bản của triết học. Trong tác phẩm Luận cương về Phơ-báchMác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ-bách – là sự vật, hiện tượng, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan. Thành thử mặt năng động được chủ nghĩa duy tâm phát triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật. Nhưng chỉ phát triển một cách trừu tượng, vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác được”.

Chỉ đến triết học Mác, với việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận nhận thức, chủ nghĩa duy vật mới trở thành triệt để, khoa học, khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, chứng minh một cách khoa học nguồn gốc ra đời và phát triển của ý thức, phê phán được những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết, đồng thời là công cụ để con người nhận thức và cải tạo hiện thực.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, vật chất quyết định ý thức; ý thức phụ thuộc vào vật chất, nhưng ý thức có tính năng động, sáng tạo và có tác động tích cực trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều, mà là quan hệ tác động qua lại một cách biện chứng. Không thấy được điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường. Sự tác động giữa vật chất và ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người cải biến sự vật trong hiện thực khách quan và nhờ sự tác động qua lại giữa hiện thực khách quan với con người thông qua thực tiễn mới hình thành được hình ảnh tư tưởng của con người về sự vật. Ngược lại, ý thức muốn tác động vào thế giới vật chất để biến đổi thế giới vật chất cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn. Tự bản thân ý thức, không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Chỉ nhờ hoạt động thực tiễn mới biến được nhũng mục tiêu, chương trình, dự án, những hình ảnh chủ quan của con người thành hiện thực. Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn đã trở thành khâu trung gian nối liền giữa cái vật chất và cái tinh thần. Phạm trù thực tiễn do vậy, có ý nghĩa thể giới quan quan trọng, làm cho quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức mang tính khoa học triệt để, và chủ nghĩa duy vật biện chứng không chi duy vật trong tự nhiên mà còn duy vật cả trong lĩnh vực đời sống xã hội.

2.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng

Mặc dù chủ nghĩa duy vật trước Mác có chứa đựng một số yếu tố biện chứng nhất định, nhưng do điều kiện phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội chưa cho phép, nên về cơ bản nó vẫn bị chi phối chủ yếu bởi phép siêu hình, đối lập với phép biện chứng. Biểu hiện tập trung nhất là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIIĨ ở Tây Âu. Còn phép biện chứng lại được một sổ hệ thổng triết học duy tâm nghiên cứu, tiêu biểu như hệ thống triết học của Hêghen. Tuy nhiên phép biện chứng của Hêghen lại tồn tại trong cái vỏ duy tâm thần bí, Mà, như Àngghen nhận xét: “Mặc dầu Hêghen đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số mối liên hệ riêng biệt giữa các hiện tượng, nhưng vì những nguyên nhân nói trên (nguyên nhân phép biện chứng của Hêghen đặt trên cơ sở duy tâm về thế giới – D.V.T), nên nhiều cái ngay cả trong các chi tiết của hệ thống Hêghen cũng không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”. Như vậy, trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép siêu hình, còn phép biện chứng lại kết hợp với chủ nghĩa duy tâm. Sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng như vậy đã làm cho cả chủ nghĩa duy vật, cả phép biện chứng cũ còn nhiều hạn chế. Đẻ xây dựng triết học duy vật thực sự khoa học, Mác và Ăngghen đã cải tạo một cách cơ bản chủ nghĩa duy vật siêu hình cũ thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy tâm thành phép biện chứng duy vật.

Như vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen xây dựng là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Có thể nói trong triết học mácxit chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự kết họp chặt chẽ, giữa hai yếu tố duy vật và biện chứng trong một hệ thống triết học thống nhất là đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và đồng thời làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên sâu sắc hơn, phản ánh đúng đắn các mối quan hệ, các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, trở thành một hệ thống lý luận thực sự khoa học.

Triết học và thế giới quan triết học không đồng nhất với nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Thế giới quan ỉà một trong những chức năng quan trọng nhất của triết học. Ngược lại triết học là hạt nhân lý luận của thể giới quan.

Khi triết học ra đời, thế giới quan của con người có một phương tiện mới để thể hiện và được củng cố vững chắc, đã đi sâu vào đời sống của con người và xã hội. Mỗi hệ thống triết học đều làm cơ sở và đồng thời thể hiện một thế giới quan nhất định. Vì vậy để thấy rõ vai trò của triết học trong đời sống xã hội, đặc biệt vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng – một trào lưu triết học khoa học – trong việc hình thành thế giới quan khoa học, chúng ta hãy nghiên cứu đặc trung của hai khuynh hướng triết học cơ bản trong lịch sử: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

2.4. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học

Để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phải căn cứ vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề xuyên suốt quá trình phát triển của triết học và quy định đến cách giải quyết những vấn đề triết học cụ thể khác, vấn đề cơ bản của triết học, như Ảngghen nói, đó là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay giữa ý thức và vật chất. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

1- Giữa tư duy và tồn tại, hay giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào, ý thức hay vật chất?

2- Ý thức của chúng ta có thể phản ánh đúng thế giới khách quan hay không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

Hai câu hỏi trên đồng thời cũng là vấn đề cơ bản của thế giới quan. Bởi vì định nghĩa về thế giới quan đã nêu trong phần trên khẳng định: Thế giới quan là hệ thống quan niệm của con người về thế giới, về vị trí con người trong thế giới. Hệ thống quan niệm đó không thể không liên quan đến nội dung của mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Do vậy chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thể hiện hai lập trường thế giới quan khác nhau.

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức của con người. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm khẳng định ý thức, tinh thần có trước vật chất và quyết định sự tồn tại của vật chất.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều ra đời từ thời kỳ cố đại với tư cách như những hệ thống lý luận của hai lập trường thế giới quan đối lập nhau và thường xuyên đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, đồng thời là động lực nội tại cho sự phát triển của triết học trong lịch sử. Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có sự biến đổi, nhưng chủng vẫn luôn luôn đối lập nhau trong việc giải quyết môi quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau như: chủ nghĩa duy vật chất phác ở thời kỳ cổ đại; Chủ nghĩa duy vật siêu hình mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu; chủ nghĩa duy vật biện chúng do Mác, Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX và Lênin phát triển vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. những hình thức tồn tại khác nhau đó của chủ nghĩa duy vật gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội, nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước, độc lập với ý thức và quyết định sự tồn tại của ỷ thức. Chủ nghĩa duy vật đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới, đều cho sự tồn tại của ý thức phụ thuộc vào vật chất, là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người. Ý thức không tồn tại độc lập với vật chất, bên ngoài thế giới vật chất.

Chủ nghĩa duy tâm có hai loại chủ yếu là: chủ nghĩa duy tâm kiiách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng như Platôn, Hêghen. cho rằng thực thể tinh thần với những tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “tinh thần tuyệt đối”, “lý tính thể giới”, không những tồn tại trước, độc lập với thế giới vật chất, mà còn sản sinh ra và quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng và quá trình trong tự nhiên và trong xẫ hội đều là sự thể hiện của thực thể tinh thần đó. Pỉatôn cho rằng thế giới các ý niệm tồn tại vĩnh viễn, trước thế giới các sự vật cảm tính. Các sự vật trong thế giới cảm tính chỉ là “cái bóng” của thế giới ý niệm. Hêghen cho các sự vật trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là “tồn tại khác” của tinh thần thế giới, chỉ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của tinh thần thế giới trong quá trình vận động phát triển của tinh thần thế giới mà thôi.

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng như Béc-cli, Hi-um, Ma-khơ cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có trước tồn tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức và quyết định sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới; các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ là phức hợp các cảm giác của con người mà thôi, hoặc chỉ là sự kết họp các yếu tố tinh thần của con người.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái tinh thần, ý thức, nhung thống nhất với nhau ở một điểm cơ bản là đều thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và quyết định sự tồn tại của vật chất.

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy tâm là lý luận triết học sai lầm. Tuy nhiên không nên có thái độ xem thường, phỉ báng chủ nghĩa duy tâm và các nhà triết học duy tâm. Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều nhà triết học duy tâm có những đóng góp xuất sắc vào sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại, chẳng hạn như Platôn, Hêghen.

Sai lầm của chủ nghĩa dựy tâm có nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội.

Nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm là ở chỗ thổi phồng, tuyệt đối hoá một mặt, một yếu tố, một giai đoạn nào đó của quá trình nhận thức, tách rời một giai đoạn nào đó của quá trình nhận thức khỏi toàn bộ quá trình nhận thức biện chứng, sinh động, phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người. Lênin viết: “theo quan điểm của một chủ nghĩa duy vật thô lỗ, đơn giản, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá. Của một trong những đặc trưng, của một trong những mặt, của một ừong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi tự nhiên, thần thánh hoá”.

Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là ở chỗ, con người, xã hội đó quá đề cao vai trò của lao động trí óc, tách rời Ịao động trí óc khỏi lao động chân tay, đó là thể hiện quan điểm, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị bảo thủ, muốn đề cao địa vị của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị, phản động đó duy trì, củtig cố chủ nghĩa duy tâm, sử dụng nó làm vũ khí tinh thần của mình để chống lại các tư tưởng tiến bộ, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

Chủ nghĩa duy tâm triết học cho răng ý thức, tình thần tồn tại độc lập và quyết định sự tồn tại của vật chất. Do vậy, về mặt thế giới quan, chủ nghĩa duy tâm triết học có sự thống nhất với thế giới quan tôn giáo, thừa nhận thực thể tình thần (dưới tên gọi “chúa”, “thượng đế”.) là cái có trước và sáng tạo ra thế giới vật chất. Vì vậy tôn giáo thường sử dụng các học thuyết triết học duy tâm làm cơ sở lý luận của mình, tuy nhiên cần thấy sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm triết học và tôn giáo cả về phương diện hình thức biểu hiện, cả về phương diện tính chất và trình độ phản ánh hiện thực. Tôn giáo chủ yếu dựa vào lòng tin về sự íồn tại chúa – đấng sáng tạo, lấy lòng tin thay cho tri thức. Trái lại chủ nghĩa duy tâm triết học dựa vào tri thức, vào lý trí, là sản phẩm của tư duy lý tính được thể hiện bằng hệ thống các khái niệm trừu tượng, các khái niệm được rút ra từ sự khái quát những tài liệu thực chứng và từ sự suy luận lôgic. Tuy nhiên sự khái quát này có thế bị tuyệt đối hoá một mặt nào đó, trở nên duy tâm phiến diện. Như vậy có thể nói tôn giáo là biểu hiện đặc thù của thế giới quan duy tâm, còn chủ nghĩa duy tâm triết học là cơ sở lý luận của tôn giáo.

Chủ nghĩa duy vật thừa nhận sự tồn tại độc lập, khách quan của thế giới vật chất, giải thích tự nhiên từ chính tự nhiên. Điều đó cũng có nghĩa là chủ nghĩa duy vật không thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới vật chất từ một lực lượng siêu tự nhiên. Do vậy về mặt thế giới quan, chủ nghĩa duy vật ừiết học đối lập với tôn giáo và về cơ bản gắn với khoa học tự nhiên, phát triển cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật thường là thế giới quan của các lực lượng xã hội cách mạng, tiến bộ trong lịch sử phát triển của xã hội.

Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái triết học chính, thể hiện hai lập trường thế giới quan đối lập nhau, luôn luôn đấu tranh với nhau. Bất cứ học thuyết triết học triệt để nào cũng thuộc một trong hai trường phái trên, hoặc chủ nghĩa duy vật, hoặc chủ nghĩa duy tâm, không có trường phái trung gian. Đó là tính đảng trong triết học, và với nghĩa đó, triết học bao giờ cũng có tính đảng. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xét đến cùng thể hiện cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích đối lập nhau trong xã hội. Tuy nhiên trên thực tế không phải bao giờ và ở đâu sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm cũng thể hiện rõ ràng (thí dụ, trong tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng và triết học phương đông nói chung sự phân biệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là không rõ ràng), do vậy không nên quy kết một học thuyết triết học nào đó thuộc về chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy tâm một cách giản đơn. Thí dụ, tư tưởng đạo đức của Nho giáo, mặc dù dựa trên quan điếm duy tâm về các tính của con người, nhưng có nhiều nội dung có giá trị tích cực giáo dục cách ứng xử giữa con người với nhau, mà cách ứng xử đó vẫn phù họp trong xã hội hiện nay. Hoặc một thí dụ khác, quan niệm về trời của Nho giáo, có lúc cho rằng trời sinh ra con người và vạn vật. Mỗi người có một mệnh do trời quyết định, không thể khác được. Con người chỉ có bổn phận làm theo mệnh trời. Như Khổng Tử nói: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ đại nhân và sợ lời nói của ông thánh”7. Thừa nhận có mệnh trời định trước, con người không thể làm khác được, đó là quan điểm duy tâm. Tuy nhiên Khổng Tử lại cho rằng: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn thay đổi”. Biết được mệnh trời thì làm việc gì cũng dễ dàng. Một quân vương mà làm theo mong muốn của muôn dân là làm theo ý trời”. Trong luận điểm trên, trời không được coi là lực lượng sai khiến nữa, mà chỉ là một mục tiêu hướng tới, còn nhân tố quyết định hành động của con người lại là các quan hệ xã hội hiện thực, quan hệ với “muôn dân”.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm giải thích thế giới xuất phát từ một nguyên thể hoặc từ vật chất, hoặc từ tinh thần được gọi là triết học nhất nguyên. Ngoài hai trường phái cơ bản trên đây, còn có những trường phái triết học xuất phát từ hai nguyên thể là vật chất và ý thức để giải thích thế giới. Những nhà triết học đó được gọi là triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên muốn điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng thực chất vẫn thuộc vào chủ nghĩa duy tâm. Bởi vì triết học nhị nguyên thừa nhận ý thức là yếu tố tồn tại độc lập ngoài vật chất. Điều đó tất yếu đi đến thừa nhận có thế giới tinh thần phi vật chất tồn tại độc lập bên cạnh thế giới vật chất.

Mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học trả lòi câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Hay nói cách khác những “biểu tượng” trong ý thức của con người có khả năng phản ánh đúng thế giới khách quan hay không?

Đa số các nhà triết học (trong đó bao gồm cả một số các nha triết học duy tâm) khẳng định khả năng nhận thức của con người. Tuy nhiên nguyên tắc thừa nhận khả năng nhận thức của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khác nhau căn bản. Chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người như chủ nghĩa duy vật, mà cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm, hoặc sự tự nhận thức của tinh thần thế giới, hoặc sự tự sản sinh ra ý thức của chủ thể bằng cách kết hợp các cảm giác của chủ thể.

Ngoài đa số các nhà triết học thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, còn có một số ít các nhà triết học phủ nhận khả năng đó. Đó lả những nhà triết học theo thuyết không thể biết. Những nhà triết học theo thuyết không thể biết đã thổi phồng tính tương đối của nhận thức, biến tính tương đổi của nhận thức thành nguyên tắc nhận thức, nghi ngờ mọi tri thức. Đó là cách hiểu không đúng về bản tính biện chứng của quá ừình nhận thức, tách rời biện chứng chủ quan khỏi biện chúng khách quan, tuyệt đối hoá yếu tố hoài nghi, vốn là yếu tố cần thiết để chống tính chất bảo thủ, giáo điều ừong nhận thức. Thuyết không thể biết vì vậy làm cho con người rơi vào tình trạng thụ động trước hiện thực xã hội, không tin tưởng vào khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của mình. Thuyết không thể biết phản ánh tâm trạng bi quan của những lực lượng xã hội lỗi thòi, muốn ngăn cản sự tiến bộ, kìm hãm năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Đây cũng chính là nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội của thuyết không thể biết.

Tóm lại, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện hai lập trường thế giới quan triết học đối lập nhau, đấu tranh với nhau trong tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng, thể hiện cuộc đấu tranh giữa những lực lượng xã hội đối lập nhau trong lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật có xu hướng đối lập với tôn giáo, gắn với sự tiến bộ khoa học, chủ nghĩa duy tâm có xu hướng ngả theo tôn giáo, đối lập với sự phát triển khoa học.

2.5. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và thế giói quan khoa học

Khái niệm thế giới quan khoa học

Trong phần trên đã trình bày, thế giới quan là hệ thống nhũng quan điểm chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và thế giới, là kết quả quá trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Thế giới quan phụ thuộc vào sự phát triển của thực tiễn xã hội và trình độ nhận thức của con người, do vậy sự phù hợp của thế giới quan với hiện thực khách quan phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và sự khái quát các thành tựu khoa học. Để xác định mức độ phù hợp của thế giới quan với hiện thực khách quan, người ta đưa ra khái niệm thế giói quan khoa học. Thế giới quan nào phản ánh đúng hiện thực khách quan thì được gọi là thế giới quan khoa học. Tuy nhiên tính đúng đắn của thế giới quan bị quy định bởi nhiều yếu tổ và được thể hiện trên nhiều mặt, trong đó suy đến cùng phải có sự xác nhận của thực tiễn.

Với những yêu cầu về thế giới quan khoa học như vậy ta có thể nêu định nghĩa khái quát như sau: Thế giới quan khoa học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù phản ánh khái quát, đúng đắn quan hệ của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong hiện thực khách quan cùng những quan hệ giữa con người với thế giới và vị trí con người trong thế giới, hướng dẫn hoạt động thực tiễn và nhận thức khoa học của con người đạt hiệu quả cao. Thế giới quan khoa học dựa trên cơ sở lý luận triết học khoa học, phản ánh đúng hiện thực khách quan. Triết học khoa học làm cơ sở lý luận cho thế giới quan khoa học, muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan, phải khái quát được những thành tựu của khoa học hiện đại, phải phản ánh đúng xu hướng vận động, quy luật phát triển của thực tiễn xã hội, phải gắn liền với thực tiễn xã hội. Trong các hệ thống triết học từ trước tới nay thì chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống triết học khoa học nhất, thực sự là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học

Chủ nghĩa duy vật biện chúng ra đời thực sự là một cuộc cách mạng trong thế giới quan, làm cho thế giới quan của con người có cơ sở lý luận khoa học, từ đó hình thành thế giới quan khoa học. Đồng thời, thông qua chức năng thế giới quan, chủ nghĩa duy vật biện chứng thế hiện vai trò của mình ngày càng to lớn đối với đời sống xã hội. Sở dĩ chủ nghĩa duy vật biện chứng đóng vai trò cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học vì chủ nghĩa duy vật biện chứng có những đặc điểm sau đây:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn

Trải qua quá trình phát triển hơn 2.500 năm, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc xác lập quan niệm duy vật về thế giới, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, bảo vệ những tư tưởng khoa học, góp phần tích cực vào quá trình biến đổi, cải tạo thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn còn những hạn chế mang tính lịch sử của mình. Đó là:

– Trong việc xem xét những hiện tượng tự nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác đứng trên quan điểm duy vật, nhưng trong việc xem xét đời sống xã hội, do hạn chế về lịch sử và bị quy định bởi lợi ích giai cấp, chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn đứng trên quan điểm duy tâm, chưa xác định được những lực lượng vật chất, những quy luật khách quan quyết định sự vận động phát triển của xã hội. Như vậy, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chưa triệt để, mới duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, duy vật “một nửa”.

– Do tính chất siêu hình, máy móc và trực quan, nên chủ nghĩa duy vật trước Mác không thấy được mối quan hệ biện chúng giữa vật chất và ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức, phủ nhận vai trò của ý thức đối với vật chất, không thấy sự tác động vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

– Chủ nghĩa duy vật trước Mác còn thiếu quan điếm thực tiễn, không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên không thể giải quyết một cách khoa học, duy vật triệt đế vấn đề cơ bản của triết học. Trong tác phẩm Luận cương về Phơ-báchMác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ-bách – là sự vật, hiện tượng, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan. Thành thử mặt năng động được chủ nghĩa duy tâm phát triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật. Nhưng chỉ phát triển một cách trừu tượng, vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác được”. 

Chỉ đến triết học Mác, với việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận nhận thức, chủ nghĩa duy vật mới trở thành triệt để, khoa học, khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, chứng minh một cách khoa học nguồn gốc ra đời và phát triển của ý thức, phê phán được những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết, đồng thời là công cụ để con người nhận thức và cải tạo hiện thực.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng vật chất tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, vật chất quyết định ý thức; ý thức phụ thuộc vào vật chất, nhưng ý thức có tính năng động, sáng tạo và có tác động tích cực trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều, mà là quan hệ tác động qua lại một cách biện chứng. Không thấy được điều này sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường. Sự tác động giữa vật chất và ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người cải biến sự vật trong hiện thực khách quan và nhờ sự tác động qua lại giữa hiện thực khách quan với con người thông qua thực tiễn mới hình thành được hình ảnh tư tưởng của con người về sự vật. Ngược lại, ý thức muốn tác động vào thế giới vật chất để biến đổi thế giới vật chất cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn. Tự bản thân ý thức, không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Chỉ nhờ hoạt động thực tiễn mới biến được nhũng mục tiêu, chương trình, dự án, những hình ảnh chủ quan của con người thành hiện thực. Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn đã trở thành khâu trung gian nối liền giữa cái vật chất và cái tinh thần. Phạm trù thực tiễn do vậy, có ý nghĩa thể giới quan quan trọng, làm cho quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức mang tính khoa học triệt để, và chủ nghĩa duy vật biện chứng không chi duy vật trong tự nhiên mà còn duy vật cả trong lĩnh vực đời sống xã hội.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng

Mặc dù chủ nghĩa duy vật trước Mác có chứa đụng một số yếu tố biện chứng nhất định, nhưng do điều kiện phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội chưa cho phép, nên về cơ bản nó vẫn bị chi phối chủ yếu bởi phép siêu hình, đối lập với phép biện chứng. Biểu hiện tập trung nhất là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIIĨ ở Tây Âu. Còn phép biện chứng lại được một sổ hệ thổng triết học duy tâm nghiên cứu, tiêu biểu như hệ thống triết học của Hêghen. Tuy nhiên phép biện chứng của Hêghen lại tồn tại trong cái vỏ duy tâm thần bí, Mà, như Àngghen nhận xét: “Mặc dầu Hêghen đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số mối liên hệ riêng biệt giữa các hiện tượng, nhưng vì những nguyên nhân nói trên (nguyên nhân phép biện chứng của Hêghen đặt trên cơ sở duy tâm về thế giới – D.V.T), nên nhiều cái ngay cả trong các chi tiết của hệ thống Hêghen cũng không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”. Như vậy, trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép siêu hình, còn phép biện chứng lại kết hợp với chủ nghĩa duy tâm. Sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng như vậy đã làm cho cả chủ nghĩa duy vật, cả phép biện chứng cũ còn nhiều hạn chế. Đẻ xây dựng triết học duy vật thực sự khoa học, Mác và Ăngghen đã cải tạo một cách cơ bản chủ nghĩa duy vật siêu hình cũ thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy tâm thành phép biện chứng duy vật.

Như vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen xây dựng là sự thống nhất hữu cơ giữa thể giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Có thể nói trong triết học mácxit chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự kết họp chặt chẽ, giữa hai yếu tố duy vật và biện chứng trong một hệ thống triết học thống nhất là đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và đồng thời làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên sâu sắc hơn, phản ánh đúng đắn các mối quan hệ, các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, trở thành một hệ thống lý luận thực sự khoa học.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng được quan niệm duy vật về lịch sử và trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để nhất

Một trong những thiếu sót lớn của chủ nghĩa duy vật trước Mác là mới duy vật một nửa, nghĩa là chỉ có quan điểm duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội vẫn chưa thoát khỏi quan điểm của chủ nghĩa duy tâm. Để khắc phục thiếu sót này, Mác và Ăngghen đã phát triển quan điểm duy vật biện chứng vào trong lĩnh vực nhận thức các vấn đề xã hội, xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như Lênin nói, chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.

Cần thấy rằng chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần là sự vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Nghĩa là không nên hiểu Mác và Ăngghen xây dựng xong chủ nghĩa duy vật biện chứng rồi rnới vận dụng vào xem xét lĩnh vực xã hội. Quá trình cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, cải tạo phép biện chứng duy tâm và xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử diễn ra đồng thời. Mác cùng với Ảngghen đã tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ nhũng tư tưởng xã hội, nhũng hệ thống triết học trên cơ sở khái quát thực tiễn xã hội hiện đại để xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Thực chất chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác là ở chỗ chỉ ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội là sản xuất vật chất, đồng thời chỉ ra những quy luật khách quan chi phối sự vận động của lịch sử xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; quy ỉuật đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định, vì đây là quy luật chi phối sự vận động phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội – nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội, Sự tác động khách quan cửa các quy luật trên đây làm cho sự thay thể các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay là người thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, văn minh và giàu mạnh, giải phóng con người khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã mở ra một thời kỳ mói về chất trong việc nhận thức lịch sử xã hội. Lịch sử xã hội hiện ra trước con người không phải như là sự thực hiện ý chí của một cá nhân nào đó, cũng không phải chỉ là sự kết hợp các sự kiện, các quá trình một cách lộn xộn không tuân theo tính tất yếu của quy luật, mà xã hội vận động, phát triển tuân theo những quy luật khách quan. Con người có thể nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan đó để cải tạo xã hội. Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác và Ăngghen xây dựng đã đem đến cho loài người một công cụ hết sức quan trọng để nhận thức và cải tạo thế giới.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện thế giới quan của giai cấp công nhân tiên tiến cách mạng, có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng, là hệ thống triết học duy vật triệt để, khoa học nhất. Nó phản ánh đúng đắn những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó phù hợp với lợi ích của giai cấp tiên tiến cách mạng nhất trong xã hội. Trong thời đại ngày nay, do địa vị của nó trong nền sản xuất xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ cách mạng nhất. Do vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là thế giới quan của giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân phù họp với lợi ích của nhân dân lao động. Do vậy cũng có thể nói với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quần chúng nhân dân lao động thực sự có thế giới quan khoa học dẫn đường trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi áp bức và bóc lột, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thực sự.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với thực tiễn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì sự tiến bộ xã hội, nó luận chứng bằng lý luận khoa học quá trình phát triển lịch sử xã hội, vạch ra xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội và chỉ ra tính tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan, là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, giữa tính lý luận và tính thực tiễn. Nó không những giải thích khoa học về thế giới mà còn mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mác nói: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Điều đó chỉ rõ vai trò xã hội to lớn của triết học Mác – Lênin, đồng thời cũng cho thấy phương hướng phát triển của nó là gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội, với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.

Tóm lại, những đặc trưng của chủ nghĩa duy vật nêu trên cho thấy chủ nghĩa duy vật là lý luận phản ánh đúng đắn các quy luật diễn ra trong hiện thực khách quan, đó thực sự là một hệ thống lý luận khoa học. Do đó có thể nói chủ nghĩa duy vật biện chứng mới thực sự đóng vai trò là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học. Các hệ thống triết học khác, do những hạn chế của nó nên không thể là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học được.

Một trong những thiếu sót lớn của chủ nghĩa duy vật trước Mác là mới duy vật một nửa, nghĩa là chỉ có quan điểm duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội vẫn chưa thoát khỏi quan điểm của chủ nghĩa duy tâm. Để khắc phục thiếu sót này, Mác và Ăngghen đã phát triển quan điểm duy vật biện chứng vào trong lĩnh vực nhận thức các vấn đề xã hội, xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như Lênin nói, chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.

Cần thấy rằng chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần là sự vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Nghĩa là không nên hiểu Mác và Ăngghen xây dựng xong chủ nghĩa duy vật biện chứng rồi rnới vận dụng vào xem xét lĩnh vực xã hội. Quá trình cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, cải tạo phép biện chứng duy tâm và xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử diễn ra đồng thời. Mác cùng với Ảngghen đã tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ nhũng tư tưởng xã hội, nhũng hệ thống triết học trên cơ sở khái quát thực tiễn xã hội hiện đại để xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Thực chất chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác là ở chỗ chỉ ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội là sản xuất vật chất, đồng thời chỉ ra những quy luật khách quan chi phối sự vận động của lịch sử xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; quy ỉuật đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định, vì đây là quy luật chi phối sự vận động phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội – nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội, Sự tác động khách quan cửa các quy luật trên đây làm cho sự thay thể các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay là người thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, văn minh và giàu mạnh, giải phóng con người khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã mở ra một thời kỳ mói về chất trong việc nhận thức lịch sử xã hội. Lịch sử xã hội hiện ra trước con người không phải như là sự thực hiện ý chí của một cá nhân nào đó, cũng không phải chỉ là sự kết hợp các sự kiện, các quá trình một cách lộn xộn không tuân theo tính tất yếu của quy luật, mà xã hội vận động, phát triển tuân theo những quy luật khách quan. Con người có thể nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan đó để cải tạo xã hội. Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác và Ăngghen xây dựng đã đem đến cho loài người một công cụ hết sức quan trọng để nhận thức và cải tạo thế giới.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện thế giới quan của giai cấp công nhân tiên tiến cách mạng, có sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng, là hệ thống triết học duy vật triệt để, khoa học nhất. Nó phản ánh đúng đắn những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó phù hợp với lợi ích của giai cấp tiên tiến cách mạng nhất trong xã hội. Trong thời đại ngày nay, do địa vị của nó trong nền sản xuất xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ cách mạng nhất. Do vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là thế giới quan của giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân phù họp với lợi ích của nhân dân lao động. Do vậy cũng có thể nói với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quần chúng nhân dân lao động thực sự có thế giới quan khoa học dẫn đường trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi áp bức và bóc lột, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thực sự.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với thực tiễn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì sự tiến bộ xã hội, nó luận chứng bằng lý luận khoa học quá trình phát triển lịch sử xã hội, vạch ra xu hướng tất yếu của sự phát triển xã hội và chỉ ra tính tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan, là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, giữa tính lý luận và tính thực tiễn. Nó không những giải thích khoa học về thế giới mà còn mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mác nói: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”7. Điều đó chỉ rõ vai trò xã hội to lớn của triết học Mác – Lênin, đồng thời cũng cho thấy phương hướng phát triển của nó là gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội, với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.

Tóm lại, những đặc trưng của chủ nghĩa duy vật nêu trên cho thấy chủ nghĩa duy vật là lý luận phản ánh đúng đắn các quy luật diễn ra trong hiện thực khách quan, đó thực sự là một hệ thống lý luận khoa học. Do đó có thể nói chủ nghĩa duy vật biện chứng mới thực sự đóng vai trò là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học. Các hệ thống triết học khác, do những hạn chế của nó nên không thể là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học được.

Xem thêm Thế giới quan và vai trò, Triết học Mác

Đang tải...

Related Posts

loading...

Bình luận