Giúp em học tốt Ngữ Văn lớp 7 tập hai – Sống chết mặc bay

Đang tải...

Sống chết mặc bay

A. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) quê làng Phượng Vũ, Thường Tín, Hà Tây (nay là Hà Nội).

Ông đã từng làm việc ở toà Thông sứ Bắc Kỳ, Ngân hàng Đông Dương, sau thôi làm công chức, ra viết báo – là cộng tác viên của tờ báo Nam Phong, Đông Dương, Trung Bắc Tân văn, Lục tỉnh tân văn, Thực nghiệp dân báo…

Hai truyện ngắn đầu tay của ông là ‘‘Sống chết mặc bay’’và “Con người Sở Khanh ” được coi như mở đường cho lối viết truyện ngắn ở miền Bắc.

Nghệ thuật truyện ngắn của ông vẫn còn chứa đựng các yếu tố của văn học trung đại như bố cục theo chương, hồi, các tuyến nhân vật xấu – tốt rõ ràng nhưng mạch truyện đã nhanh hơn, ngôn ngữ đã “đời thường” hơn và cốt truyện thiên về kể người thật việc thật, chi tiết và chân thực hơn.

“Sống chết mặc bay” được đăng trên Tạp chí “Nam Phong” số 18. tháng 12 năm 1918.

B. HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU TÁC PHẨM

1. Câu hỏi 1 (SGK, trang 81)

a)Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc lại văn bản. Xem kĩ phần chú thích trong SGK, đặc biệt là những từ cổ (nha lệ, cừ, dân phu, thẩm lậu…).

Chú ý sự thay đổi về không gian, bối cảnh và giọng điệu.

b) Gợi ý trả lời

Truyện “Sống chết mặc bay” có thể chia làm ba đoạn theo trình tự diễn biến của sự việc:

Đoạn 1: từ đầu đến “… khúc đề này hỏng mất”, kể về mối nguy vỡ đê sông Nhị Hà và tái hiện cảnh chống đỡ của người dân làng X thuộc phủ X.

Đoạn 2: “Ấy, lũ con dân… điếu, mày !” tả cảnh quan lại đánh tổ tôm trong đình.

Đoạn 3: phần còn lại, thề hiện cảnh đê vỡ, nhân dân rơi vào cảnh khốn khổ, thương tâm.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 81)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Đọc câu hỏi, nắm vững những gợi ý của SGK (về phép tương phản, các chi tiết cần lưu ý…).

Có thể căn cứ vào chính sự thay đổi thái độ, tình cảm, cảm xúc của bản thân trước những cảnh tương phản đó.

b) Gợi ý trả lời

Truyện “Sống chết mặc bay” là một bức tranh tương phản với hai cảnh tượng đối lập được đặt cạnh nhau trong thế đối sánh: một bên là cảnh tượng nhân dân đang kiệt sức, vất vả chống đỡ với nguy cơ đê vỡ; một bên là cảnh quan phủ, nha lại nhàn nhã, nhởn nhơ, xa xỉ, say sưa chơi tổ tôm, không mảy may quan tâm đến việc hộ đê.

Cả hai cảnh tương phản này đều được miêu tả rất cụ thể bằng nhiều chi tiết, và càng chi tiết thì sự đối lập càng được khắc sâu.

Đoạn viết về cảnh ngươi dân vất vả hộ đê khá ngắn nhưng đã thể hiện được một cách sinh động và đầy đủ: thời gian, không gian. Lúc đó là “một giờ đêm”, sức nước, mực nước… được miêu tả hết sức rõ nét: ‘Trời mưa tầm tã”; nước cuồn cuộn bốc lên. Trong khi đó thì con đê “xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi”. Tác giả đã tái hiện được cả bầu không khí nhốn nháo, căng thẳng nơi mặt đê: “trồng đánh liên thanh ”, “ ốc thổi vô hồi ”, “tiếng người xao xác gọi nhau”… ở đây, nhà văn đã có một sự so sánh ngầm rất khéo giữa cái nhỏ bé nhưng nhiệt tình, dốc lòng gìn giữ khúc đê của con người với sức nước cuồn cuộn, dữ dội, đầy đe doạ. Đó thực sự là một cuộc chiến không cân sức: “ké thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”; “xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi”. Với sự so sánh ấy, tác giả đã đặc tả đến tận cùng cảnh tượng thảm thương của người dân (cuộc sống và tính mạng của họ đang bị đe doạ từng phút).

Sau khi khắc sâu cảnh tượng xót xa ấy, nhà văn chuyển sang một không gian khác: “Đình ấy cũng ở trên mặt đẽ, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì”, ở đoạn này, nhà văn miêu tả còn tỉ mỉ hơn. ông rất chú ý đến việc khắc hoạ quang cảnh: “đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràỉig”; không khí: “tĩnh mịch”, “nghiêm trang”, ‘‘nhàn nhã, đường bệ, nguy nga”, ‘tôn kính”…

Nếu như ở đoạn trên những âm thanh được miêu tả là tiếng ốc, tiếng trống liên thanh, tiếng người xao xác gọi nhau thì ở đây, những âm thanh khác hắn: “lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng”.

Đặc biệt, nhà văn hướng ngòi bút vào miêu tả nhân vật quan phụ mẫu, từ những đồ dùng của hắn: “bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm”; “tráp đồi mồi chữ nhật đê mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông” toàn những thứ quý hiếm, xa xỉ; đến dáng ngồi, cử chỉ của y: “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, đê cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi”; “vuốt râu”; “rung đùi”… Từ cách nói hách dịch “điếu, mày”; ‘‘có ăn không thì bốc chứ’’… đến sự đam mê tổ tôm, niềm vui hả hê của quan khi ù ván bài… đều nhất quán với nhau, cùng làm nổi bật lên chân dung của một vị quan bề ngoài thì oai nghiêm bệ vệ nhưng thực ra là loại quan vô trách nhiệm, phè phỡn, hưởng lạc. Thái độ của đám nha lại, chánh tổng khúm núm, nịnh bợ… cũng phản ánh sự thối nát trong cách quản lí, trị nhiệm của tên quan này. Đặc biệt, thái độ khi nghe tin đê vỡ là điểm nhấn phơi bày tới chân tơ kẽ tóc bản chất của hắn. Hắn coi ván bài tổ tôm là trên hết. Đê vỡ, điều đó đồng nghĩa với việc nhân dân khốn đốn, tài sản mất trắng, tính mạng bị đe doạ… thậm chí cả bọn nha lại cũng phải “giật nảy mình”, riêng hắn không một mảy may xúc động. Hắn chăm chú vào ván bài, chờ ù. Khi có người dân lấm láp vào tận nơi báo tin, hắn còn giở giọng doạ dẫm, quát nạt. Đến đây, quan phụ mẫu không chỉ là một tên quan phè phỡn, hưởng lạc, vô trách nhiệm nữa mà đã là kẻ “lòng lang, dạ thú”, không động lòng trước cảnh thảm thương của “đồng bào huyết mạch”.

Như vậy, bằng những chi tiết tỉ mỉ, cụ thể và sinh động, Phạm Duy Tôn đã xây dựng rất thành công hai bức tranh đối lập, trong đó nổi bật lên hình ảnh tên quan phụ mẫu “lòng lang, dạ thú”. Chính phép tương phản này giúp ông đẩy tình huông truyện tới đỉnh điểm và các nhân vật vì thế mà nổi bật hơn. Khi đặt cảnh xa hoa, tĩnh mịch nơi bọn quân nha đang đánh tổ tôm đối lập vối tình cảnh người dân trước nạn đê vỡ. Càng làm nổi bật hơn sự khôn khổ và thảm thương của dân chúng. Cũng chính do được đặt cạnh khung cảnh nhốn nháo, thê thảm này mà sự vô trách nhiệm, sa đoạ của quan phụ mẫu càng được khắc sâu. Qua đó, nhà văn đã lên án gay gắt thái độ thò ơ, vô nhân tính của tên quan phủ đồng thời bày tỏ niềm thương cảm đối với những người dân trong cảnh “nghìn sầu muôn thảm” do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 82)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Dựa vào định nghĩa của SGK về phép tăng cấp (Lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), phân tích các chi tiết theo ba ý hỏi trong SGK trên cơ sở biện pháp nghệ thuật này. Từ đó mới tìm ra tác dụng của nó.

b) Gợi ý trả lời

Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa, mức nước được kết hợp với phép tương phản khi nhà văn miêu tả song song với những chi tiết về mức độ vất vả, căng thẳng của người dân đang hộ đê.

Trời mưa mỗi lúc một to: mưa tầm tã – vẫn mưa tầm tã trút xuống; mức nước sông mỗi lúc một dâng cao: “Nước sông Nhị Hà lên to quá “dưới sông nước thời cứ cuồn cuộn bốc lên”;…

Nhờ sự tăng cấp, tình thế nguy ngập được thể hiện rõ: sức nước ngày càng mạnh còn sức người thì ngày càng yếu, nguy cơ đê vỡ đã đến rất gần.

Sự tăng cấp được tác giả sử dụng đặc biệt thành công khi thể hiện nhân vật quan phụ mẫu. Mỗi chi tiết có tác dụng như là một lớp mặt nạ được bóc ra, để lộ dần dần bản chất nhân vật này.

Đầu tiên, những chi tiết tả đồ dùng sinh hoạt xung quanh tên quan chỉ cho thấy sự xa hoa, hưởng lạc của hắn. Sau đó, qua những chi tiết vể cử chỉ, lòi nói, tác giả thể hiện thêm một nét khác ở hình tượng này: sự hách dịch, quan cách, coi thưòng người khác.

Chỉ riêng niềm say mê đánh tổ tôm của quan phụ mẫu cũng được miêu tả ở hai cấp độ: khi quan phụ mẫu mê bạc đến độ không quan tâm đến việc hộ đê của người dân, ta thấy đó là một tên quan vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi phè phỡn. Nhưng đến lúc đê đã vỡ, “tiếng người kêu rầm ri, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết, rồi lại có tiêng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía có người dân chạy vào tận nơi báo tin, tên quan vẫn không mảy may động tâm, thậm chí còn quát nạt, doạ dẫm… thì không còn là sự ham mê bài bạc hay vô trách nhiệm nữa mà đã trở thành sự tàn nhẫn, lòng lang dạ thú, dửng dưng trước tính mạng, cuộc sống của đồng loại, của nhân dân.

Sự kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp đã vạch trần được bản chất phi nhân tính của tên quan phủ. Lúc quan vui sướng nhất vì ù được ván bài to thì cũng là lúc dân rơi vào cảnh “muôn sầu nghìn thảm”. Đó chính là sự tương phản được nâng lên đến đỉnh điểm qua nhiều chi tiết, qua cả một diễn trình, dẫn tới một tiếng kêu đầy phẫn nộ, cũng đồng thời là một tiếng khóc xót xa mà tác giả ngầm giấu đằng sau câu chữ.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 82)

a) Hướng dẫn tìm hiểu

Lưu ý: câu hỏi yêu cầu phát biểu về giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện. Đây không chỉ là nêu ý nghĩa tác phẩm như chúng ta thường làm với các tác phẩm văn Học dân gian hay những bài văn nhật dụng… “Sống chết mặc bay” là truyện hiện đại, vì thế cấu trúc nghệ thuật, các tầng nghĩa cũng phức tạp, sâu rộng hơn, cần nắm vững những yêu tô” chung thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của một tác phẩm. Ví dụ, với khái niệm giá trị hiện thực, ta có thể nhắc đến khả năng phản ánh, cải tạo hiện thực; với khái niệm giá trị nhân đạo, cần chú ý đến khía cạnh: sự đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người; lên án những thế lực chà đạp con người, thể hiện và xót thương, cảm thông trưóc những đau khổ của con người… Tất nhiên không phải tác phẩm nào cũng hàm chứa đủ các yếu tô đó và không phải bao giò các biểu hiện của chúng cũng giống nhau, cần hiểu rõ nội dung văn bản để tìm ra các giá trị này.

Khi nhận xét về nghệ thuật tác phẩm, cần đi vào các yếu tố cụ thể như ngôn ngữ, hình tượng nhân vật…

b) Gợi ý trả lời

Giá trị hiện thực của tác phẩm “Sống chết mặc bay” là ở chỗ đã xây dựng được một bức tranh hết sức sinh động, chân thực về cuộc sông lầm than của người dân nghèo và bộ mặt thối nát của bọn quan lại. Trên cơ sở đó, tác giả lên tiếng phê phán, tố cáo thái độ vô trách nhiệm đến tàn ác của bọn quan phụ mẫu, đồng thời thể hiện niềm xót thương đối với cuộc sống cơ cực của nhân dân. Giá trị nhân đạo của tác phẩm chính là ở đó.

Về mặt nghệ thuật, bên cạnh biện pháp tương phản và tăng cấp được kết hợp rất thành công, thể hiện rõ bộ mặt, bản chất phi nhân tính của bọn quan lại thốỉ nát; nét đặc sắc của truyện này là ngôn ngữ ngắn gọn, tình huống truyện độc đáo, mạch truyện được đẩy nhanh, giọng điệu đa dạng (giọng châm biếm và giọng cảm thông). Với những đặc trưng bút pháp ấy, Phạm Duy Tốn xứng đáng được coi là cây bút truyện ngắn hiện đại đầu tiên của văn xuôi Bắc Kì đầu thê kì XX.

C. TƯ LIỆU THAM KHẢO

Hai cảnh tượng cùng diễn ra ở cùng một thời điểm nguy cấp, ở cùng trên một mặt đê, với những con người có chung bổn phận bảo vệ khúc đê xung yếu. Cảnh tượng trước là cảnh tượng lầm than, bi thảm.

Cảnh tượng sau là cảnh tượng hưởng lạc, ăn chơi, vô liêm sỉ. Tô đậm sự đối lập ấy bằng những chi tiết nghệ thuật cụ thể, sinh động, tác giả chẳng những làm nổi bật thái độ vô trách nhiệm của các “quan cha mẹ” mà còn phơi bày, bêu riếu những bộ mặt đáng khinh, đáng ghét của lũ ngưòi “lòng lang dạ sói”. Giọng văn xót xa, thương cảm ở phần mở đầu truyện chuyển dần thành giọng giễu nhại, chỉ trích. Giọng chỉ trích, giễu nhại mở rộng thành mạch phẩm bình không thế kìm nén về nhân cách “quan phụ mẫu”: ‘Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài càng thây kệ”; “Mặc! Dân, chang dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ dạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu! Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm!”. Những lời bình phẩm ấy sẽ được chứng minh bằng cảnh tượng diễn ra ở phần cuối câu chuyện.

Đoạn cuối truyện giống như một màn kịch ngắn, chia thành lớp lang, có thắt nút, mở nút. Xung đột kịch được mỏ ra thời điểm, từ trong đình đã “nghe ngoài xa tiếng kêu vang trời dậy đất”. Có người rụt rè nhắc khéo quan: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ!”. Nhưng đó cũng là đến lúc ván bài đang đến hồi quyết định, sắp đến hồi quyết định, quan sắp “ù to” thắng lớn, ngài “chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quăn mình chờ mà hạ Cho nên, quan vẫn “điềm nhiên ”, rồi quan cau mặt, gắt: “Mặc kệ! Ngài chỉ thay đổi thế ngồi và giục thầy đề chú ý vào ván bài “Có ăn không thì bốc chứ!”’. Xung đột kịch căng thẳng hơn khi ở trong đình nghe thấy càng ngày càng lớn “tiếng người kêu rầm rĩ”, “tiếng ào ào như thác chảy xiết”, ‘‘tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía”. Lúc bấy giò, trừ quan ra, ai nấy “đều nôn nao sợ hãi Đến lúc người ta nói thẳng vào mặt quan, rằng “đê vỡ mất rồi” thì quan “đỏ mặt tía tai’’ quát tháo, dùng oai quyền lấp liếm, đổ. vấy tội cho kẻ khác và cố sức lập lại trật tự bị xáo trộn để không có gì ảnh hưởng tới ván bài: “ông cách cô chúng mày”, “ông bỏ tù chúng mày”, “đuôi cổ nó ra../’.

Mâu thuẫn kịch được đẩy lên đến cao trào sau đó mở nút, quan ù ván bài to, ngài thoả mãn, đắc ý vỗ tay xuống sập kêu to: ‘Đây rồi!…

Thế chứ lại ”, ‘Ù! Thông tôm, chi chi nảy Trong khi đó thì ở ngoài kia đê vỡ, ‘hước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”, hàng nghìn con người lâm vào cảnh “kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn

Lúc quan vui nhất, sướng nhất chính là lúc “sinh ra một cảnh nghìn sầu, muôn thảm ” khiến ai cũng phải “động tâm; thương xót đồng bào huyết mạch Đó là nội dung màn kịch ở phần cuối truyện. Các biện pháp tương phản, tăng cấp được sử dụng triệt để, làm cho kịch tính ngày càng gay gắt. Ngôn ngữ gián tiếp của người kể chuyện chỉ còn giữ vai trò dẫn truyện. Ngôn ngữ đối thoại phát huy tác dụng tối đa để các nhân vật bộc lộ tính cách và diễn biến tâm trạng.

Sống chết mặc bay thể hiện thái độ căm phẫn, khinh bỉ sâu sắc của Phạm Duy Tốn đối với bọn quan lại táng tận lương tâm, đồng thời bộc lộ niềm thương cảm toát lên nhiệt tình phơi bày thực trạng xã hội, thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Trong Sống chết mặc bay vẫn còn nhiều câu văn viết theo kiểu biền ngẫu và đôi khi tác giả vẫn còn ham bình luận. Tuy nhiên, đây là truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam thể hiện thành công tư tưởng xã hội của tác giả bằng hình tượng nghệ thuật sống động.

Xem thêm Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích tại đây

Đang tải...

Bài mới

loading...

Bình luận